(Trích dịch từ quyển From Third World To First – The Singapore Story 1965 – 2000 (Hồi ức Lý Quang Diệu) từ trang 347, phần II chương 19 : Việt Nam, Myanmar và Cambodia: Hướng tới giao tiếp với Thế Giới Hiện Đại)

… Vào ngày 29 tháng 10 năm 1977 một chiếc DC3 (tên gọi khác của kiểu phi cơ cánh quạt series Douglas – ND), một chiếc Dakota cũ kỹ, đã bị không tặc cướp trong khi đang thực hiện một chuyến bay nội địa và hướng nó tới Singapore. Chúng tôi không thể ngăn nó đáp xuống sân bay quân sự Seletar. Chúng tôi cho phép chính phủ Việt Nam gửi đến một phi hành đoàn để lái máy bay quay trở lại, mang theo phi hành đoàn cũ và hành khách, sau khi chúng tôi đổ đầy xăng và tân trang lại nó. Chúng tôi truy tố những kẻ không tặc, kết án và phán quyết họ 14 năm tù giam.

Việt Nam đã chẳng bao giờ chi trả cho phần tiếp vận, mà thay vì vậy, lại gửi tới chúng tôi một lô một lốc những cảnh cáo phải trao trả lại nhóm không tặc nếu không sẽ phải đối mặt với hậu quả. Chúng tôi phải kiên định và không cho phép bản thân bị ra oai, nếu không sẽ chẳng hết chuyện rắc rối. Mối quan hệ của Singapore với nước Việt Nam thống nhất từ năm 1975, bắt đầu với một hố sâu ngăn cách.

Việt Nam tỏ ra tinh ranh khi khai thác sự sợ hãi họ cùng mong muốn được làm bạn với họ của các quốc gia Asean. Họ tuyên bố cứng rắn trên đài phát thanh và báo giấy. Tôi nhận ra những người lãnh đạo của họ thật khó chịu (1). Họ luôn nghĩ họ quan trọng đặc biệt, và tự tưởng thưởng mình vai trò như đế chế Áo-Phổ trong vùng Đông Nam Á. Thật sự là, họ đã phải gánh chịu, hứng hết những trừng phạt mà kỹ nghệ của Mỹ đã trút lên họ, và bằng sự sức chịu đựng bền bỉ cộng với tuyên truyền khéo léo, khai thác cả giới truyền thông nước Mỹ, họ đánh bại người Mỹ. Họ tự tin rằng họ có thể đánh bại bất kỳ thế lực nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, nếu can thiệp vào Việt Nam. Đối với chúng tôi, một nước thành bang (nước chỉ có 1 thành phố-ND), họ chẳng coi ra gì ngoài sự khinh thường. Họ tuyên bố họ sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các thành viên thuộc liên hiệp Asean với tư cách cá nhân, chứ không phải giao tiếp coi Asean như là một khối (Tức 1-1, xem quan hệ ngoại giao với toàn bộ Asean cũng chỉ ngang 1 nước – ND). Báo giấy của họ chỉ trích sự hiện diện của quân lực Hoa Kỳ tại Philippines và Thái Lan, và đụng tới cả mối quan hệ kiểu đồng lõa giữa Trung Quốc – Singapore.

Khoảng năm 1976 sự bất đồng sâu sắc với Trung Quốc buộc họ phải phái các phái đoàn ngoại giao tới Asean. Quyền Bộ trưởng Ngoại giao là Phan Hiển mang đến thông điệp hòa bình khi ông ta viếng thăm các quốc gia trong vùng. Đầu tiên ông ấy loại bỏ Singapore khỏi lịch trình, nhưng thay đổi kế hoạch để tới vào tháng 7 năm 1976. Ông nói Việt Nam là những người không can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác. Ông ta vẽ ra sự khác biệt giữa nhân dân và chính quyền CHXHCN Việt Nam. Nhân dân Việt Nam thì ủng hộ lý do đúng đắn của các dân tộc Đông Nam Á chiến đầu vì độc lập, tức là bạo loạn Cộng sản. Chính phủ lại muốn thiết lập mối quan hệ song phương với các quốc gia (Asean). Tôi nói thẳng, thuyết ngụy biện ngoại giao này không thể xóa đi những câu hỏi trong đầu chúng tôi rằng, liệu lối phát ngôn nước đôi này thực chất là can thiệp hay chăng (2). Liên hệ tới việc Soviet hỗ trợ Việt Nam , tôi nói những cường quốc (3) hiểu thật nguy hiểm nếu đụng đầu trực tiếp với nhau vì vậy họ sử dụng các quốc gia thứ 3 để mở rộng tầm ảnh hưởng. Sự khác biệt giữa các quốc gia Asean đã được giải quyết bên trong nội bộ Asean do đó cả Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ lẫn Liên Bang Sô Viết không thể khai thác được. (4)

(còn tiếp)


Chú thích:

(1) Đoạn này được dịch nhẹ đi, theo các keyword nguyên mẫu là “cunningly”, “tough”, “insufferable” trong 3 câu liên tiếp kề nhau thì dễ thấy dịch tương ứng hợp lý sẽ không thể là “tinh ranh”, “cứng rắn”, “khó chịu” mà phải là: “xảo quyệt”, “côn đồ”, “không thể chịu đựng được”.

(2) Ngụ ý của ông Phan Hiển khá rõ ràng: Bản chất Nhân dân Việt Nam thì muốn ủng hộ bạo loạn Cộng sản đấy (nghĩa là những vụ đảo chính lật đổ chính quyền do Đảng Cộng sản nước sở tại cầm đầu. Ví dụ tại Malaysia), còn chính phủ của ông Hiển thì không như vậy, không muốn can thiệp chuyện nước khác, chỉ muốn thiết lập quan hệ song phương đơn thuần. Ông Diệu là người rất dị ứng với kiểu bạo động Cộng sản. Ở đây cần đặt câu hỏi về tư cách của Phan Hiển (hoặc bản chất thực sự của đảng ông Hiển ?) : Mang Nhân dân Việt Nam ra làm 1 bình phong để nhận tiếng xấu của người ngoài về chính sách chính quyền (ủng hộ ĐCS sở tại bạo động tức can thiệp nội  bộ), còn chính quyền Việt Nam – ĐCS VN – thì chỉ có ý tốt mà thôi.

(3) Nguyên văn là “great powers” = “các thế lực hùng mạnh”. Ở đây có thể hiểu đúng hơn là 2 cực Tư Bản – Cộng Sản thời bấy giờ, nếu như thực sự ông Diệu có ý nói tránh.

(4) Asean lúc bấy giờ chỉ gồm Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Tất cả đều độc lập không súng đạn bằng việc ký hiệp ước với các nước thực dân đô hộ. Mặc dù sau này cả 5 nước đều nghiêng về hướng chống Cộng (tức theo trục Tư Bản), song luôn cố giữ mình ở vị trí trung lập, không đụng độ lớn trực tiếp với khối Cộng Sản.

Truyền thông, với vai trò trung chuyển giữa vận động thực tế và thông tin, đã không còn đơn thuần là 1 công cụ khách quan. Một xã hội mà luồng thông tin mở cũng không bảo đảm được tính khách quan này. Thực tế làm hầu hết mọi người – chủ yếu đứng ở vai trò tiếp nhận thông tin – phải chấp nhận việc kẻ mạnh sẽ có ưu thế về sức mạnh truyền thông. Vấn đề còn lại sẽ là “bộ lọc” của mỗi người (tính định hướng, đúng đắn nhất sẽ phải nằm ở bước này).

Truyền thông, tại Việt Nam, nhìn qua sẽ thấy có ý nghĩa nhu cầu. Đối với đại tá quân y như ông ngoại đã khuất của tôi, truyền thông gói gọn trong tờ Nhân Dân, Sài Gòn, kênh VTV1. Đối với anh xe ôm như anh Dũng gần nhà, truyền thông là tờ Công An, Bóng Đá. Đối với nhiều đồng nghiệp của tôi, truyền thông là những trang điện tử mang nhiều tính gossip, show gái gú kiểu vnexpress, ngoisao.net, chuyenhot. Thật vô cùng đơn giản : Đại tá quan tâm tới chiến tích Đảng trong thời đại mới, anh xe ôm quan tâm tới những vụ chém, giết, hiếp hay tỉ lệ bắt độ trận Premier League tối mai, kỹ sư phần mềm quan tâm tới gái đẹp, series laptop v.v…

Nhưng liệu nó có hoàn toàn đơn giản ?

(i) Ông đại tá đã nổi giận khi nhà nước tăng thuế đất. Chính sách đã được công bố đâu ? Sao tôi không biết rằng quân nhân có công với Cách Mệnh như tôi cũng không nằm ngoài đối tượng phải chịu mức thuế mới ?

(ii) Anh xe ôm, anh bán cá viên chiên văng tục liên thanh khi giá gạo vọt lên cao. Đm sao thằng cha Triết làm tồi thế. Không làm được thì cút xuống cho ông Mạnh lên dùm.

(iii) Công ty tin học nhao nhao lên khi đọc thấy tỉ lệ lạm  phát mà sắp tới kỳ xét tăng lương. CPI là gì vậy trời ? Lạm phát cao thế này lận hả ? Phải đòi tăng lương bù lạm phát đi chứ.

Vậy vấn đề thực sự ở đây là gì ?

Mỗi chúng ta, nếu vì ngu dốt hoặc bảo thủ, đều có xu hướng tự hài lòng với thông tin được mớm sẵn, đẩy ra xa mình những luồng thông tin bị cho là ngoại đạo so với luồng “chính thống”. Xu hướng này bền vững, dễ thấy ở những xã hội đơn cực – nơi mà luồng thông tin đều xuất phát từ 1 nguồn, ngấm ngầm phục vụ cho đối tượng duy nhất, vì vậy về hình thức, theo 1 chiều duy nhất. Nó sẽ chỉ bị xới lên, đặt vào sự nghi ngờ khi ai đó cảm thấy rõ nguy cơ tổn hại tới quyền lợi bản thân. Bởi con người là 1 thực thể không hoàn hảo : Tham lam và ích kỷ. Trong những hoàn cảnh này, họ chỉ nên tự trách mình. Bởi niềm tin tuyệt đối, thơ ngây trước đây (i) ? Bởi sự tự ngu muội hóa bản thân trong 1 thời gian quá dài (ii) ? Bởi sự ù lì và cầu an (iii) ? Có lẽ cả 3 + sự thiếu ý thức tích lũy thông tin từ những trang “phi chính thống”.

Với mục đích kể trên, tự nghĩ mình sẽ dịch 1 loạt bài với headline chung, gọi là “Họ nghĩ gì về Việt Nam”. Đơn giản chỉ là để bản thân hệ thống, tổng quát được trang tin bên ngoài. Mọi mục đích khác, nếu có, chỉ do người đọc chủ quan đặt ra.

Nguyên Ngọc

Câu chuyện này nói vào đầu xuân có thể hơi buồn, nhưng nghĩ kỹ lại có lẽ cũng có chỗ thích hợp, bởi vì đây là câu chuyện về màu xanh, màu của mùa xuân xanh. Của sự sống.

Quê tôi ở vùng Nam Trung bộ, đúng cái đoạn mà một nhà thơ từng thống thiết gọi là “dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Ở đấy, miên man mấy trăm cây số ven biển là những cồn cát lớn, nơi trắng phau một màu trắng tinh khiết đến khó tin, nơi vàng rộm ngon lành trong nắng cháy. Làng cũng là làng trên cát; con người sống trên cát, tử sinh cùng với cát. Tôi có đọc một ít lịch sử và tôi biết, lạ vậy, toàn cát vậy, nhưng đấy vốn không phải là một vùng đất nghèo. Từng có cả một vương quốc thịnh vượng trên dải đất này. Một vương quốc nông nghiệp và hải dương. Có lẽ một trong những bí quyết thịnh vượng của vương quốc ấy là nước, mà thiên nhiên đã rất thông minh giữ và giành cho dải đất thoạt nhìn thật khô cằn này, và con người thì cũng thật thông minh hiểu được món quà quý của đất trời, biết tận dụng lấy cho mình.

Cho đến chỉ cách đây đâu khoảng chưa đến nửa thế kỷ, ở quê tôi vẫn còn một kỹ thuật nông nghiệp rất đặc biệt, tinh tế và thú vị, gọi là kỹ thuật “tưới nước mội”, người Việt học được của người Chăm khi đi vào Nam. Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngữa cổ uống ngay ngon lành. Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất. Nước mội từ trong lòng cát rỉ ra, nhẹ nhàng, chậm chạp, từ tốn, mà bất tận. Những chiếc ao nước mội, những con mắt ngọc xanh rờn, mát rợi của đất đai, làng mạc, đồng ruộng quê tôi. Nhỏ nhoi và thầm lặng, chính chúng nuôi sống nền nông nghiệp từng trù phú của vương quốc xưa, và của cả cha ông chúng tôi nữa khi họ đi về Nam …

Champa cũng là một vương quốc biển, từng dong thuyền đến những đại dương xa, và từng có những cảng quốc tế rộn rịp trên suốt dọc bờ biển của mình. Những người có đôi chút kiến thức về giao thương biển đều biết rằng một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một cảng biển quốc tế là nước ngọt, phải rất dồi dào nước ngọt. Những con tàu lang thang nhiều tháng trời trên các đại dương mặn chát, lắm khi chẳng vì mua bán gì cả, vẫn phải ghé lại các cảng ven bờ để “ăn” nước ngọt. Và trên dải cồn cát miên man của mình, người Chăm là những người thiện nghệ nhất thế gian về nghề tìm mạch nước, đào và thiết kế giếng nước ngọt. Họ như có con mắt thần, có thể nhìn thấy đường đi của nước ngọt âm thầm trong lòng đất, những dòng nước mội. Chính hệ thống giếng nước ngọt thánh thiện và tuyệt vời – từ nước mội bất tận rỉ ra mà có – đã tạo nên vương quốc đại dương Champa, tôi nghĩ nói thế cũng chẳng hề quá đáng đâu …

Từ nhỏ, là dân vùng cát cháy miền Trung, tôi đã có hạnh phúc được biết nước mội, nếm nước mội, ăn nước mội, sống và lớn lên bằng cây cỏ được nuôi bằng nguồn nước mội ân huệ bất tận.

Của Trời.

Rồi về sau, cuộc đời lại đã cho tôi một may mắn khác: tôi hiểu hóa ra “Trời” đó không phải là một đấng trừu tượng thần bí nào, mà là một thực thể sống động, khổng lồ, cường tráng, hùng vĩ …, mà lạ thay, cũng lại rất mong manh, hết sức mong manh, ngày càng đang trở nên cực kỳ mong manh!

Trường Sơn. Tây Nguyên.

Tôi đã được đi đến nơi đó và gắn bó hơn nửa cuộc đời của mình ở đó.

Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hằng triệu triệu năm nay, như một người Mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, ” để giành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này.

Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.

Có lẽ cũng cần nói thêm một chút nữa về điều này: không chỉ cho dải đất cát cháy miền Trung đâu. Trường Sơn có một đặc điểm quan trọng về địa hình: đường phân thủy ở đây không chạy đúng giữa mà sát ngay về phía đông của rặng núi dằng dặc này, nghĩa là sườn phía tây của Trường Sơn rộng hơn sườn phía đông rất nhiều, có thể đến bốn năm lần. Tức nước từ Tây Nguyên đổ về phía tây cũng nhiều hơn về phía đông có thể đến bốn hay năm lần. Mà đổ về phía tây tức là về Mékông, về Nam Bộ. Về toàn miền Nam. Trong một chừng mực nào đó, Tây Nguyên, rừng Tây Nguyên có ý nghĩa quyết định đối với toàn miền Nam về tất cả các mặt. Nếu chỉ nói một mặt nước thôi, thì có lẽ cũng nên nhớ: nước ở miền Tây Nam bộ, ở Cà Mau kia, cũng có thể là nước mội từ Mẹ Rừng Tây Nguyên chắt chiu đưa về đấy, cho mênh mang vùng đất lúa của cả nước ấy không bị nhiễm mặn…

Hàng nghìn đời nay có những con người đã sống ở đây, gắn bó ruột thịt với rừng và đã tạo nên cả một nền văn hóa đầy minh triết bắt nguồn chính từ sự gắn bó ấy. Để bày tỏ đôi lời thật giản lược về nền văn hóa ấy và những con người ấy, chắc có thể nói vắn tắt như thế này: người Tây Nguyên không bao giờ coi rừng là tài nguyên. Không bao giờ có khái niệm khai phá, chinh phục, chiếm lĩnh tự nhiên, rừng. Đơn giản, Rừng đối với họ là Tất cả, là Mẹ, là cội nguồn của sự sống. Mà họ kính trọng và tôn thờ.

Chúng ta, những người tự coi là rất văn minh, rất khoa học, chúng ta biết nước là nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta không biết, biết bằng hành vi cụ thể chứ không phải bằng lý lẽ to tát, rằng không có rừng thì cũng chẳng có, chẳng còn nước, nghĩa là cũng chẳng còn có sự sống, chúng ta không biết cái chân lý sơ đẳng và đơn giản ấy. Nhìn thấy rừng là con mắt ta hau háu nhìn thấy gỗ, gỗ, gỗ… Và hết gỗ rồi, bây giờ, thấy tài nguyên khác. Hau háu, hung hăng, hỗn hào chặt phá,và hết chặt phá, chẳng còn gì để chặt phá nữa thì đào bới…

Ở quê tôi, nay đã kiệt nước mội rồi. Chi tiết rất nhỏ ấy thôi, vậy đó, lại đang là tai họa tày trời!

Chắc chưa ai quên vụ lũ kinh hoàng ở Phú Yên vừa rồi. Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoang… Một vị có trách nhiệm rất cao và trực tiếp giải thích: Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại Trời và tại dân, Trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ngu dốt! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói: năm nay, 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 li; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1300 li, gấp hơn ba lần. Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại tai họa khủng khiếp, vì sao?

Ở miền Trung – mà ở cả nước đều vậy – ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam Bộ thuở nào. Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ là nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nổi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dở mái để leo lên nữa! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng. Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần. Ngày nay hể đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…

Con số 1300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ.

Do người. Do cơ chế nước mội tinh tế, tinh vi, thông minh, nhân hậu tuyệt vời của thiên nhiên đã không còn, đã bị phá vỡ, bị đã bị con người triệt diệt bằng cách triệt diệt rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong một cuộc trao đổi ở Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật trung ương vừa rồi, nhiều chuyên gia đã cảnh báo: không chỉ có nguy cơ lũ quét đâu, sau lũ quét sẽ tiếp đến nguy cơ hạn hán sẽ còn khốc liệt, tai hại hơn. Bởi vì nước mội và lụt hằng năm hiền lành là cùng một cơ chế, cùng một tác giả: Rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong hơn 30 năm qua, từ sau 1975 chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên trên cái mái nhà sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ đang bắt đầu moi sạch nốt dưới lòng đất. Cao su tuyệt đối không phải là rừng, không sinh ra cơ chế nước mội. Các khu công nghiệp của công nhiệp hóa và hiện đại hóa càng tuyệt đối không phải là rừng. Một quy luật vận hành ổn định, điều hòa, thông minh của tự nhiên đã bị triệt diệt, nhanh và cơ bản hơn tất cả mọi giai đoạn từng có trong lịch sử. Một quy luật khác đã được thiết lập, quy luật của hỗn loạn.

Hãy nhìn lên cái mái nhà chung kia mà bao nhiêu thế hệ nhiều nghìn năm qua đã giao lại cho chúng ta, trên ấy đã mất hết màu xanh của sự sống.

Có còn cứu được không?

Còn, với một điều kiện: biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại.

Cũng cần nói: hầu hết các nước mà ngày nay ta gọi là những nước phát triển đều đã đi qua “con đường đau khổ”, đúng hơn là con đường ngu dại này, cũng từng tàn phá hết rừng trên mặt đất và đào bới tàn bạo lòng đất, ở nước họ, rồi ở các nước khác. Chỉ có điều, gần một thế kỷ trước họ đã giật mình dừng lại, và từ đó bắt đầu làm lại, khôi phục lại màu xanh cho đất đai, núi non của họ.

Đi sau, chúng ta có thể khôn ngoan hơn như lẽ ra phải thế. Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn hăng lắm trong việc chặt phá nốt đôi chút còn lại và đang bắt đầu một công cuộc đào bới hung dữ.

Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng.

Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.

Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan.

Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngữa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn.

Cuối năm 2009

(Trích boxitvn.wordpress.com)

Đã từ lâu mình không đăng bài nữa. Viết không đúng mức suy nghĩ của mình thì khó chịu, viết mà đăng lên thì … sợ nhiều rắc rối. Hôm nay vào trang bauxitevietnam, đọc 1 bài của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân – 1 KTS rất có uy tín trong giới kiến trúc gia.

Đăng lại : Không thế không nói

KTS Trần Thanh Vân là người có đến 55 năm “duyên nợ” với Trung Quốc. Không ngờ chị lại có quê ngoại vốn là quê nội của tôi và trời xui đất khiến thế nào mà ngày đầu kháng chiến toàn quốc, riêng bố lên ATK còn mẹ con cô bé Vân lại dắt díu nhau chạy tuốt về Đức Thọ Hà Tĩnh để hưởng cái không khí “gạo trắng nước trong” thơ mộng những năm đầu và rước lấy tai họa vào mấy năm sau đó, khi Cải cách ruộng đất đợt 5, đợt cuối cùng và cũng là sai lầm kinh hoàng nhất, nổ ra ở đây. Cô bé Vân nhỏ hơn tôi ít nhất cũng đến 5 tuổi và được bố vội vã trở về đưa ra Việt Bắc ngay nên không thể biết gì thêm về những chuyện “long trời lở đất” như tôi, nhưng cũng đã kịp chứng kiến cảnh ông ngoại là một thầy lang hiền lành có uy tín trong vùng và người mẹ, từ tuổi còn rất trẻ đã biến thành tiểu thư Hà Nội nên khi trở về lại quê cha là tất tả lo kêu gọi chị em thành lập tổ may áo rét cho binh sĩ, cả hai người, ông và mẹ đều bị đưa ra đấu trường (trong Phát động Giảm tô vào 1953, đấu trường cũng đã ghê gớm, dữ dằn nhưng chưa khủng khiếp bằng bước sau, năm 1955, được gọi đúng tên CCRĐ). Những lởn vởn trong đầu về bàn tay can thiệp của đội quân do Bác Mao phái sang giúp chúng ta, gây ra chết chóc và làm tanh bành đất nước, bắt đầu dấy lên trong chị từ những ngày ấy.

Chị Vân cũng có cả những trải nghiệm về những ngày tháng “hữu nghị Việt Trung Xô” (tuy chị nhớ nhầm diễn ra sau CCRĐ, kỳ thực nó bắt đầu trước cơn bão ấy khá lâu và kéo dài mãi đến sau này) mà về phần tôi, không bị những cuộc đại liên hoan nhảy múa “xồn la xồn” rộn rã – diễn ra ở bất kỳ nơi đâu ta sinh sống – mê hoặc, nhưng thú thực, một ít bài hát thuở ấy còn quyến rũ tôi đến nay về cái giai điệu du dương của chúng, nhất là về cái sức thôi thúc tuổi trẻ đắm vào giấc mơ chiến đấu cho một thế giới đại đồng: “Ai nghe chăng tiếng kèn trên Leningrade / Ai nghe chăng tiếng hát giữa Trung Hoa / Hà Nội ơi ngày chiến thắng không xa và / Khi lúa đơm hoa cờ / Tiến quân ta về Thủ đô / Ai nghe chăng xích xiềng đang tung nơi nơi / Và ngày mai khi súng lặng nơi chiến trường / Là lúc ta lên đường đập tan sóng Thái Bình Dương…“.

Chị Thanh Vân may mắn hơn tôi được sang Thượng Hải theo học ngành kiến trúc từ 1960 đến 1966, tận mắt nhìn thấy bức tranh náo loạn của Đại cách mạng văn hóa Trung Quốc làm cho hàng mấy trăm triệu con người trở nên hung hăng điên dại. Còn chúng tôi, vào Đại học Tổng hợp Hà Nội từ 1956, chúng tôi cũng đã nhận được tiếng dội của phong trào Đại tiến vọt từ Trung Quốc dội đến, đã cùng nhau đi thu thập chảo gang và đồ sắt phế liệu để chuẩn bị mở lò luyện thép trong trường, may mà cụ Hồ đã kịp có ý kiến để những chuyện đó không xẩy ra ở Việt Nam.

Trong khóa học Ngữ văn đầu tiên sau hòa bình của mình, bên cạnh các chuyên gia Liên Xô, chúng tôi lại cũng có may mắn được học với những chuyên gia lỗi lạc về văn học cổ điển Trung Quốc như GS Trương Trọng Thuần, từ Đại học Bắc Kinh cử sang, tính tình thật đôn hậu, vừa uyên thâm vừa vẽ giỏi, có thể vẽ minh họa thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị bằng phấn ngay trên bảng. Và theo các bạn cùng khóa của tôi sau ngày tốt nghiệp ít năm được chọn sang làm tu nghiệp sinh ở Trung Quốc kể lại, thì trong Đại cách mạng văn hóa Trung Quốc, một đêm kia, thầy Trương Trọng Thuần đã đánh bạo lần mò đến ký túc xá của đoàn học sinh Việt Nam gõ cửa rất gấp, đưa ra 2 lá thư, với giọng nghẹn trong nước mắt, nhờ học trò cũ chuyển giúp ông về nước, nhằm xin với “bên nhà” cho được sang lánh nạn ở Việt Nam. Tiếc thay thư gửi về mà không có hồi âm khiến thầy mong đỏ cả mắt, rồi chuyện gì xẩy ra đã xẩy ra: khoảng vài tuần sau cái đêm liều mạng đến gõ cửa các học trò Việt Nam, thầy đã biến mất tăm dạng, đến nay không ai biết ở đâu…

Phần thứ hai của bài viết của KTS Trần Thanh Vân là một kiến giải có tính chất dự báo về việc áp dụng lý thuyết phong thủy để nhìn xem hình thế địa mạch trái đất như một sợi dây liên thông vô hình không dứt, trong đó Việt Nam là một điểm nhấn quan trọng. Tôi không dám lạm bình vào những điều huyền vi này, bởi phong thủy là một môn học đòi hỏi phải có sự kết hợp xét đoán nhiều mặt, tinh tường, về những gì đã hiện hình trên thế núi, hình sông mạch đất, và cả những gì thuộc phạm vi tâm linh chứ chưa hiện rõ. Tôi tuyệt nhiên không biết một chút sơ đẳng về cái học uyên áo kia trong khi chị đã có đến 19 năm đào sâu về nó. Bởi vậy, chỉ xin được giới thiệu với bạn đọc kiến giải của chị như những giả thuyết không chỉ hấp dẫn về khả năng liên tưởng sâu xa mà phía sau nó còn là một lời cảnh báo nghiêm khắc với những ai có quyền, có tiền, có đủ thứ, chỉ duy không có trái tim hoặc trái tim đã bị chia ra nhiều phần, phần lớn nhất buộc phải dâng cho kẻ khác, vì thế mắt mở to mà không hề nhìn thấy mọi hiểm họa đang rình rập tứ phía đối với giải đất cong cong hình chữ S ruột thịt của 85 triệu con dân Việt. Và đây là lời cảnh báo chị muốn đưa ra: hãy kịp thời tỉnh lại đi những ai đang mê muội trong giàu sang và quyền lực, vì bàn chân lũ cáo ranh mãnh đã mon men đặt lên một vài trong các tử huyệt của đất nước.

Nguyễn Huệ Chi

Không thể không nói

PHẦN I

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”

– “Cái gì? 55 năm?”

– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.

Sự thật và trải nghiệm

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.

Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Quốc. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Quốc. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

Du học ở Trung Quốc

Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.

Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.

Thời kỳ đã trưởng thành

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Quốc giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

Trung Quốc hôm nay?

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Quốc đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

PHẦN II

TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi.

Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich

que-chan.jpg
Nước Trung Hoa hình quẻ chấn

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

Cung-điện-taytang-potola.jpg
Cung điện Tây Tạng Potola

Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

NuicháuongtuTL.jpg
Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương

Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.

LỜI CUỐI BÀI

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

Đông dân là một sức mạnh

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng.

mô-hình-hàng-không-mẫu-hạm-ở-vũ-hán-ship2.jpg
Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

 

Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

TTV

Bài do tác giả gửi trực tiếp cho Bauxite Việt Nam. HT biên tập.

Trích Bauxitevietnam

Tôi gọi đó là 1 nguồn gió mới bởi bài góp ý khiến tôi chợt có những ý nghĩ quang đãng, bớt đi nhiều bụi rậm từ những cuộc tranh cãi vô bổ với nhiều đối tượng.

Tôi gọi đó là 1 nguồn gió mới bởi nó phần nào giúp tôi thoát khỏi cảm giác chán nản, sau 1 chuỗi ngày viết-rồi-nhận-ra-tác-dụng-chẳng-là-gì, viết-mà-chỉ-toàn thấy-cuộc-sống-tương-lai-mình-sụp-đổ, khi đối chiếu với bao người đi trước.

Tôi gọi đó là nguồn gió mới bởi nó [đoạn sau] có thể có ích cho 1 số bạn vốn luôn thủ sẵn sự điên loạn vô lý bên trong – như 1 phản xạ – đối với 1 cá thể hay 1 nhóm cá thể nào đó.

Lời dẫn:

Tôi lấy làm vinh dự được tác giả Thiện Ý gửi gắm việc giới thiệu công khai danh tính thật cũng như nhân thân của anh sau khi bài Đổi mới Đảng để tránh sụp đổ được công bố trên talawas blog. Việc công khai này đánh dấu một bước ngoặt lớn của anh trên con đường phản biện với những người lãnh đạo Đảng của mình, tổ chức mà anh gắn bó suốt 50 năm nay, đến nay anh vẫn “giận mà thương” và thực lòng hy vọng vào sự thay đổi của nó để nó tự cứu vãn và cứu vãn cả tương lai dân tộc.

Thiện Ý chính là Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập một số tờ báo của hệ thống công đoàn: báo Lao động mới (Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam Việt Nam), báo Công nhân Giải phóng (tiền thân của báo Người Lao động, Liên đoàn Lao động TPHCM) báo Lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), cũng là ngòi bút bình luận sắc bén một thời của báo này với bút danh Thuận Lý. Xuất thân từ một gia đình cách mạng, cha là Tống Văn Thêm bút hiệu Tăng Ích, tham gia Đảng Cộng sản từ 1929, dịch giả của Tạp chí Tân Trung Hoa thời kháng chiến chống Pháp (chi tiết rất thú vị: vậy thì anh có trong người dòng máu Minh Hương, tức có thể nói anh là một “người cựu-Tàu yêu nước Việt”, trái ngược với những kẻ “người Việt yêu nước… Tàu” hiện nay).

Tống Văn Công sinh năm 1932, tham gia Vệ quốc đoàn chống Pháp (1950-1959), được giải Ba cuộc thi viết truyện ngắn về miền Nam 1959, làm báo Lao động từ 1960, huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Con đường phản biện với Đảng của đảng viên kỳ cựu Tống Văn Công bắt đầu từ thời gian sau “Đổi mới”, chủ yếu với công việc lãnh đạo báo Công nhân Giải phóng và sau đó báo Lao động trong những cuộc đấu tranh dũng cảm chống quan liêu tham nhũng, bênh vực quyền lợi công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là trong mấy năm huy hoàng của tờ Lao động Chủ nhật mà lịch sử báo chí Việt Nam sẽ phải ghi nhận như người xung kích của báo chí “cách mạng” (đúng nghĩa là báo chí trong vòng kim cô của đường lối tuyên giáo cộng sản) đã phá rào để nói lên những tiếng nói trung thực với đời sống và “khác” với ý của lãnh đạo Đảng. Và tất nhiên anh phải trả giá, may mà cái giá cũng không quá đắt: bị cho về hưu (Xem bài Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải của Thiện Ý trên talawas blog). Điều đáng ghi nhận là chính ở tờ báo này, Tống Văn Công đã thể hiện “tư tưởng Hồ Chí Minh” đúng như anh trình bày trong bài viết Đổi mới Đảng…: không “ngu trung” với ý thức hệ, thực lòng đoàn kết mọi lực lượng của dân tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới – ở đây là một tờ báo mới (bao gồm những nhà báo đảng viên trung thực, những nhà báo tay nghề cao của Sài Gòn cũ, những cựu-tù-chính-trị của chế độ, những người trẻ có tâm huyết…). Và quả nhiên là tất cả mọi người trong tờ báo cũng thực lòng đoàn kết dưới sự lãnh đạo của những đảng viên cấp tiến và có trình độ như anh, mong được dùng ngòi bút phục vụ công cuộc Đổi mới. Chính đó là sức mạnh khiến mọi người chấp nhận san sẻ thu nhập ít ỏi như nhau (80.000 VND/tháng vào năm 1990) say sưa làm báo như đi “làm cách mạng”. Tình cảm giữa anh Công và tôi nảy nở trong những ngày tháng không quên ấy. Tôi là một người vừa đi cải tạo vì thơ văn “phản động” về chưa bao lâu, lại được giao toàn quyền nắm trang Văn hoá-Văn nghệ của một tờ báo lớn, đó là chuyện chưa từng có và không thể hình dung (ngày hôm nay thì lại càng không thể!). Nhờ sự kiên quyết của anh, báo Lao động đã là tờ báo đầu tiên giới thiệu các nhân vật Nhân văn-Giai phẩm (Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…), ủng hộ những khuynh hướng sáng tác mới, hiện đại còn bị kỳ thị của giới chính thống (đặc biệt trong mỹ thuật và văn học). Qua nhiều thử thách, tình đồng nghiệp giữa chúng tôi đã biến thành tình bạn, tình đồng chí.

Một thời gian dài sau khi nghỉ hưu, Tống Văn Công hầu như không xuất hiện trong đời sống báo chí, hoặc chỉ xuất hiện dưới bút danh nào đó với những bài vô thưởng vô phạt, dường như anh đã an phận thủ thường. Nhưng anh lại vẫn luôn luôn theo dõi, trao đổi bàn bạc với bạn bè thân hữu về mọi tình hình đang diễn ra trên đất nước. Những ai quan biết anh đều nghĩ sẽ đến lúc Tống Văn Công tái xuất giang hồ, không thể khác.

Không phải vì anh là anh hùng hảo hớn gì, mà đơn giản là tình hình đất nước dần dần đi đến chỗ hiểm nguy mà nếu không quá hèn nhát, quá giá áo túi cơm hay nhất quyết mũ ni che tai thì những người có hiểu biết, có lương tri, có tâm huyết buộc phải bước ra khỏi nơi trú ẩn an toàn để bày tỏ thái độ. Với những người đã trót mang nghiệp “ngôn luận”, im lặng trước cái sai, cái xấu, cái lỗi thời lúc này là mang tội đồng lõa không thể biện minh.

Và bắt đầu xuất hiện bút danh Thiện Ý trên talablog, với những bài viết rất được chú ý vì sự thẳng thắn, cái nhìn mang tính tổng quát, lập trường triệt để nhưng tỉnh táo và chân thành xây dựng của một người trong cuộc. Từ bài viết đầu tiên về khủng hoảng văn hóa đạo đức, tác giả đã nêu rõ nguyên nhân sâu xa, nền tảng của nó là khủng hoảng ý thức hệ; đến bài mới nhất, anh vẫn triển khai lập luận ấy đến cùng, và mở nó ra thành cái nhìn toàn diện về thể chế. Cuối cùng việc phải đến đã đến: anh đặt thẳng vấn đề về hệ thống chính trị và tính chính đáng của đảng cầm quyền. Chính ở bài này, anh quyết định công bố tên thật đằng sau cái bút danh mà anh muốn giữ vì đã quen với bạn đọc và có thể chuyển tải “thiện ý” của mình.

Anh đã giải phẫu vào cái đệ nhất yếu huyệt, gót chân Achille của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, nếu như với việc công bố bài này cùng tên thật, mặc dù đầy “thiện ý”, Tống Văn Công có bị những thành phần cứng rắn trong Đảng của mình làm khó thì cũng là chuyện dễ hiểu.

Tôi là một công dân Việt Nam ngoài Đảng, nhưng nhận thức rõ rằng trong một thời gian còn dài, tương lai của đất nước, của dân tộc phụ thuộc chủ yếu vào những biến chuyển trong nội bộ đảng cầm quyền. Từ lâu tôi đã đặt câu hỏi: Ngoài những kẻ thoái hóa biến chất, đặc quyền đặc lợi đang múa tay trong bị trước tình trạng hỗn loạn của xã hội hiện nay, Đảng CSVN còn được bao nhiêu đảng viên chân chính, không bám quyền bám lợi mà thật sự nghĩ đến dân đến nước? Tại sao họ im lặng thế? Vì sợ hãi kỷ luật Đảng? Vì luyến tiếc một quá khứ oai hùng? Vì chưa tìm được lối ra? Vì lo lắng một sự sụp đổ nguy hiểm?

Bài viết mới nhất của Thiện Ý – Tống Văn Công là một câu trả lời cho tôi. Vẫn có không ít đảng viên mang trong đáy sâu lòng mình phẩm chất của người yêu nước thực sự, và không phải không có những người nghĩ được “lối ra” khá an toàn cho cuộc “khủng hoảng” (“Khủng hoảng và lối ra” là tên một luận văn của Nguyễn Kiến Giang). Và họ đã lên tiếng, ngày càng đông, ngày càng thẳng thắn. Tôi tin rằng những ý kiến của Tống Văn Công hôm nay về căn bản đã nói đúng suy nghĩ của đa số người dân Việt Nam hôm nay, cả đảng viên lẫn không đảng viên, kể cả những quan chức đang hưởng lợi từ cơ chế hiện hành nhưng có tầm nhìn xa về tương lai của con cháu họ. Và tôi vẫn chưa hết hy vọng ở sự biết lắng nghe của những người có quyền trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ít ra là một số và con số này sẽ ngày càng tăng. Nếu không, thì thảm họa cho đất nước này không xa!

Hoàng Hưng

Đổi mới Đảng, tránh nguy cơ sụp đổ!

Thiện Ý (Tống Văn Công)

I. Tổ quốc trước hai hiểm họa

Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm. Mọi người Việt Nam yêu nước có trách nhiệm tìm đường đưa dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa đó.

Chúng ta đã từng gọi một cách chính xác “bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh là kẻ thù trực tiếp nguy hiểm”. Những hành động lấn lướt khiêu khích gần đây ở Biển Đông chứng tỏ bản chất của chúng không hề thay đổi. Ngày 2-7-2009 trả lời ký giả Mặc Lâm của Đài Phát thanh RFA, nhà ngoại giao Dương Danh Dy từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc, nhận định: Trung Quốc là anh láng giềng to, khỏe, tham, lại xấu tính và “sau thời điểm 2010 trở đi chưa biết họ làm cái gì đâu. Họ kinh khủng lắm…”

Hai mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức cố gắng xây dựng với Bắc Kinh mối quan hệ “đồng chí” kèm theo “16 chữ vàng” (do Giang Trạch Dân đặt ra, Lê Khả Phiêu tán thành đưa vào Tuyên bố chung tháng 2-1999): “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Mấy năm sau lại bổ sung “tinh thần 4 tốt”: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Để tỏ lòng trung thành với mối quan hệ đó, Nhà nước Việt Nam đã bắt bớ những công dân của mình xuống đường biểu tình với khẩu hiệu “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Đó là thủ đoạn ngoại giao khôn khéo hay chỉ là sự đớn hèn? Tình trạng này còn kéo dài bao lâu? Rồi bằng cách nào để có thể thực hiện được di chúc thiêng liêng của Đức Trần Nhân Tông: “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác!”? Không làm được điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thoát khỏi trách nhiệm trước lịch sử là đã để đất đai thấm máu cha ông lọt vào tay giặc.\

Giặc nội xâm là cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chỉ thói tham ô, lãng phí, quan liêu. Từ năm 1948 khi ông viết những điều này trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, 60 năm đã trôi qua, tham nhũng hồi ấy chỉ như ruồi muỗi, ngày nay đã trở thành hùm beo, mặc dù ở mọi cấp mọi ngành đều có cơ quan chống tham nhũng! Cứ xem chế độ tiền lương, Chủ tịch nước cũng chưa đạt mức phải đóng thuế thu nhập, thế mà cán bộ nào cũng nhà cao cửa rộng tiêu xài hoang phí thì có thể biết tham nhũng là bệnh của cả hệ thống! Nguyên nhân nào đẻ ra tình trạng đó? Biện pháp nào để ngăn chặn đây?

Có người có thể nêu thêm hiểm họa về môi trường, nhưng thực tế cho thấy vụ Vedan và nhiều vụ khác đều là con đẻ của quan liêu tham nhũng.

Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử 80 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam để đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của Đảng và tìm lại sức sống cho Đảng, hòng cứu dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa nói trên.

II. Ba thế mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Mọi đảng viên cộng sản kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh đều bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước mà đến với chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ nhiều người cho đó là chọn nhầm đường, lạc đường, hoặc nặng lời hơn, có người lên án Đảng Cộng sản lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, rằng nhân dân theo Việt Minh, theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chớ không phải theo cộng sản. Có người cho rằng con đường cộng sản không phải là một tất yếu lịch sử để giải phóng dân tộc, rằng nếu…

Tiếc rằng lịch sử không cho chúng ta chữ “nếu”! Tôi thích câu nói của cựu Bí thư Đảng Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas: “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, đến 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu”. Và cũng ông ấy đã nói: “Không thể nói rằng họ (người cộng sản) đã cố tình lừa dối, rồi sau đó không chịu thực hiện. Sự thật là họ không thể thực hiện được những điều mà họ đã nhiệt liệt tin tưởng”. Dù gì thì lịch sử cũng phải ghi nhận việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám và đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến ”Điện Biên chấn động địa cầu”. Những người “quốc gia” nên nhận sự kém cỏi của mình là không làm được gì có sức thuyết phục dân tộc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa được dựng lên nhờ bàn tay của người Mỹ, mà người Mỹ thì đã đài thọ hơn 80% chiến phí cho người Pháp. Do đó Việt Nam Cộng hòa không tìm được niềm tin từ nhân dân. Rồi để cứu Việt Nam Cộng hòa và danh dự nước Mỹ, hàng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học đã dội lên đầu nhân dân Việt Nam!

Tất cả những điều ấy làm cho số đông người Việt Nam tin theo Đảng Cộng sản, từng thật lòng khi nói “ơn Bác, ơn Đảng”, thật lòng gọi hai tiếng “Đảng ta”! Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi răn dạy đảng viên đã nói một câu mà ngày nay nghe cứ tưởng như chuyện đùa: “Đừng tưởng rằng cứ dán lên ngực hai chữ cộng sản là sẽ được nhân dân yêu mến, nếu như không rèn luyện đạo đức…”.

Tuy nhiên, vào đầu những năm 50 trở đi đã nảy mầm tai họa:

– Nhầm đồng minh thể chế, đồng minh giai đoạn, là đồng minh chiến lược, lâu dài; trong khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.

– Đường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản.

Hậu quả là niềm tin của nhân dân đối với Đảng nhiều lần bị hẫng hụt. Dù vậy đến nay vẫn chưa phải như đánh giá của nhà văn Đào Hiếu: “Trừ một số tư sản mại bản, tư sản đỏ,… thì đại đa số nhân dân Việt Nam đều căm ghét chế độ hiện nay”. Nếu nhận định đó là đúng thì sự sụp đổ của chế độ đã không thể cưỡng được. Đó có thể là tình trạng những năm 80, khi khủng hoảng kinh tế, xã hội chưa có lối ra.

2. Chính Đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam gượng dậy, mạnh lên, lấy lại niềm tin của nhân dân.

Mấy bài nói của ông Lê Hồng Hà, nguyên cán bộ cao cấp Bộ Công an, về tình hình đất nước 20 năm qua, tôi rất đồng tình ở nhiều nhận định sâu sắc và những ý kiến về phương hướng sắp tới. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như ông khi cho rằng: “20 năm qua, cuộc đấu tranh giữa một bên là Đảng Cộng sản và một bên là toàn dân Việt Nam, kết quả là dân thắng Đảng trên hai mặt trận kinh tế và tư tưởng, nhưng dân chưa thắng về chính trị, vì hệ thống chuyên chính vô sản vẫn còn nguyên”. Tôi nghĩ, nói như vậy là phủ nhận sự chuyển biến bên trong của Đảng Cộng sản. Do đặc điểm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đề cao hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội. Ý thức hệ cộng sản không được đặt cao tuyệt đối mà có thể du di. Cách xử lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước và sau Cách mạng tháng Tám là như thế. Cách xử lý của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản trước cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 80 cũng là như thế. Nếu không có những đảng viên như Kim Ngọc, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, có lẽ phải kể cả ông Trường Chinh nữa, thì không có Đổi mới. Chúng ta có thể lấy Bắc Triều Tiên, Cuba làm đối chứng cho nhận định này! Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, điều ấy không ngoa. Nhưng dùng hai chữ Đổi mới là thủ đoạn đánh tráo khái niệm, thực ra phải nói là “trở lại như cũ trên con đường văn minh của nhân loại”.

Chính vì chỉ “đổi mới” chứ không chịu “trở lại như cũ” cho nên những người lãnh đạo Đảng Cộng sản luôn luôn ngập ngừng, cứ hai bước tiến lại một bước lùi, chỉ vì sợ bị mất độc quyền lãnh đạo. Ở đây xẩy ra cuộc đấu tranh giữa những người muốn Đổi mới toàn diện mạnh mẽ như Trần Xuân Bách, Trần Độ với lực lượng bảo thủ muốn ghìm lại, nhất là ở lĩnh vực chính trị. Dù gì thì Đổi mới đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Hệ thống chuyên chính vô sản cũng mềm đi chứ không cứng rắn được như trước. Ví dụ, trong vụ giới trí thức kiến nghị dừng dự án Bauxite Tây Nguyên, ban đầu đã có ý đe dọa, gán cho tội chịu ảnh hưởng của bọn phản động, nhưng rồi đã phải lùi lại. Một trang Web Bauxite Việt Nam có danh sách gần 3000 người ký tên trong 8 đợt kiến nghị, có hàng trăm ý kiến phản biện sắc bén, được hàng triệu người truy cập, quả là một hiện tượng chưa từng có.

Tự do kinh tế đem lại nhiều công ăn việc làm, cuộc sống vật chất của người dân dễ chịu hơn, bộ mặt đất nước cũng thay đổi. Các biện pháp quản lý xã hội có mềm hơn. Cán bộ, công chức nói chung gắn bó với Nhà nước. Doanh nhân được ưu đãi, chăm sóc. Do đó số đông tầng lớp trung lưu và trí thức chưa quá bức xúc đòi hỏi tự do dân chủ. Công nhân đình công, nông dân biểu tình đều vì quyền lợi vật chất cụ thể chứ chưa phải đòi được tự do lập Hội, lập Công đoàn. Có tài liệu cho rằng trung bình mỗi người dân Việt Nam có chân trong 2,33 tổ chức Hội, Đoàn, làm cho họ cứ tưởng rằng mình đã được nhiều tổ chức của một xã hội dân sự bảo vệ lợi ích khi cần thiết.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm chắc lực lượng quân đội và công an bằng một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trên xuống tận cơ sở và buộc họ đồng nhất Đảng với Tổ quốc. Nhận định của ông Lê Hồng Hà rất đúng khi cho rằng không thể dùng bạo lực để lật đổ chế độ này.

Tuy nhiên ba thế mạnh kể trên đang bị “ba điểm yếu” bào mòn từng ngày. Nếu không kịp thời có giải pháp sáng suốt và mạnh mẽ để đổi mới Đảng thì về lâu dài nguy cơ sụp đổ khó tránh khỏi.

III. Ba điểm yếu của Đảng Cộng sản

1. Do ”ngu trung” với ý thức hệ, Đảng Cộng sản Việt Nam không rút được bài học nhầm lẫn chọn bạn đồng minh, đã tiếp tục phạm sai lầm lớn hơn ở cuộc gặp Thành Đô năm 1990, cầu hòa với Bắc Kinh trong thế yếu. Từ đó, hai kẻ thù mang mặt nạ “đồng chí”, giả vờ kết giao trên “16 chữ vàng”. (Do quá phẫn nộ trước hành động ngang ngược gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nhân dân đã nhại lại thành 16 chữ đen là “Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, cướp biển lâu dài, thôn tính tương lai”). Nhầm lẫn trước năm 1954 còn có thể thông cảm, nhưng từ khi Bắc Kinh liên tục gây chiến tranh biên giới với tất cả quốc gia láng giềng Ấn Độ, Liên Xô, Việt Nam mà vẫn còn cho rằng “từng là xã hội chủ nghĩa với nhau vẫn tốt hơn” thì thật là mù quáng. Năm 1974 chúng đã chiếm Hoàng Sa, năm 1984 chúng bất ngờ tập kích Lão Sơn giết chết 3.700 chiến sĩ Việt Nam, năm 1988 chúng chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa, giết chết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Chúng liên tục lấn tới, lập cơ quan hành chính Tam Sa gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, liên tiếp bắn giết, cướp thuyền, bắt ngư dân chúng ta đánh cá trên vùng biển của mình. Những ai có trái tim yêu nước đều cảm nhận chúng chỉ chực chờ thời cơ để đánh úp chiếm đoạt cả Trường Sa của chúng ta!

Từ tháng 3 năm 2009 đến nay, cả nước sôi sục một phong trào đòi hủy bỏ dự án Bauxite mở đường cho hùm dữ vào nhà. Các bậc đại công thần của chế độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, các Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Văn Cương và hàng ngàn trí thức đã lên tiếng cảnh báo những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước phải thức tỉnh. Kỹ sư Doãn Mạnh Dũng, trong “Bài học bất ngờ từ Trung Quốc” đã viết: “Năm 2008, tập đoàn Tân Tạo đưa Trung Quốc vào quần đảo Nam Du xây dựng cảng than. Cũng năm 2008, Đài Loan thành công với dự án xây dựng khu luyện thép bên vịnh Sơn Dương. Cuối năm 2008, việc xây dựng nhà máy luyện nhôm Tân Rai, Nhân Cơ giúp Trung Quốc gài quả bom bùn độc trên thượng nguồn sông Đồng Nai. Nếu một ngày nào đó thực hiện kịch bản chiến tranh bất ngờ như năm 1979, họ sẽ nổ quả bom bùn đã gài sẵn ở Tân Rai làm các tỉnh miền Đông và thành phố Hồ Chí Minh chết khát. Họ chiếm Sơn Dương – Hà Tĩnh, chặn cả đường biển lẫn đường bộ từ Nam ra Bắc. Họ chiếm quần đảo Nam Du cắt đường biển quốc tế đến Việt Nam. Một tình huống vô cùng nguy khốn đang hiện ra trước mắt ta đó!”

Báo chí và người phát ngôn Việt Nam không dám nêu tên tàu Trung Quốc mà gọi là “tàu lạ”. Trong khi đó, báo mạng Hoàn cầu thuộc Tân Hoa xã bình luận rằng: Trung Quốc nên giải quyết tranh chấp biển đảo bằng biện pháp quân sự! Vậy mà Nhà nước Việt Nam vẫn sợ mất lòng Trung Quốc, không dám đưa vụ bắt ngư dân của mình ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Dư luận trong và ngoài nước đều chê trách những người lãnh đạo Việt Nam quá ngờ nghệch đã tự chui vào thế kẹt rồi đâm ra hèn nhát trước sức ép của Bắc Kinh. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc có bài viết tựa đề “Sao bỗng dưng họ lại hèn vậy?” trong đó ông nhắc lại nhiều hành xử anh hùng của người cộng sản Việt Nam trước đây, nhưng không lý giải câu hỏi mới đặt ra.

Ở những cuộc chiến tranh cứu nước trước đây, chúng ta luôn luôn có đồng minh thân thiết và được nhiều quốc gia khác ủng hộ. Trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc 1979, chúng ta còn có đồng minh Liên Xô. Trái lại trong cuộc đối đầu với bọn bành trướng Bắc Kinh hiện nay, Việt Nam hoàn toàn không có đồng minh chiến lược! Tiến sĩ Storey chủ biên tạp chí Đông Nam Á Đương đại cho rằng: “Vấn đề Biển Đông là chủ đề nan giải” (ý nói đối với Việt Nam) và nhận định: “Các nhà lãnh đạo Ba Đình không thể dựa vào một quốc gia nào khác ngoài bản thân mình trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Không thể dựa vào Mỹ, không thể dựa vào Nga và càng không thể dựa vào khối ASEAN”. Tại sao ông nhận định như vậy? Bởi vì chúng ta đã tự xếp mình là đồng minh thân thiết nhất của Trung Quốc. Khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tiếp Lý Nguyên Triều, Trưởng ban Tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc, cám ơn họ đào tạo cán bộ cho Việt Nam thì cơ quan an ninh Việt Nam bắt luật sư Lê Công Định. Khi Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb đến Hà Nội thì Đài Truyền hình Việt Nam phát lời thú tội của bốn nhà hoạt động dân chủ, trong đó lời khai bổ sung của Lê Công Định là có gặp nhiều quan chức Mỹ, Đại sứ Mỹ cho rằng tổ chức tư pháp cần tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều tờ báo và đài truyền hình bình luận rằng, những người hoạt động dân chủ bị bắt đều có liên hệ với các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Các động thái kể trên đã cho thế giới hiểu rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng về phía nào trên bàn cờ khu vực và toàn cầu!

Ông Lê Tuấn Huy trong bài “Bài ngửa ở Biển Đông và bài bản về tư duy”, đã nhận xét rất đúng rằng: “Trong tương quan Biển Đông đã bị đặt vào thế phải tranh chấp, Việt Nam lại không có đồng minh cơ hữu lẫn đồng minh thể chế, khi mà đồng minh lớn nhất về chính trị lẫn văn hóa chính là chủ thể muốn tước đoạt biển đảo. Việt Nam cũng hầu như không có được sự hậu thuẫn cuả công luận thế giới trong vấn đề này và đó cũng là một phần hậu quả từ việc thiếu vắng tương tác đồng minh”. Ông nhận định: “Chần chừ, với Việt Nam lúc này đồng nghĩa với việc tiếp tục đẩy mình vào cảnh thân cô thế cô!”.

Tổ quốc cấp thiết đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn giữa hai con đường: Tìm đồng minh cho dân tộc hay là giữ “đồng chí” cho Đảng. Thật ra thì bọn bành trướng Bắc Kinh đâu có xem Đảng Cộng sản Việt Nam là đồng chí. Cách hành xử trịch thượng của họ đối với ta giống như minh chủ đối với chư hầu! Nếu không mau chóng trả lời dứt khoát câu hỏi trên, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ càng ngày càng bị mất niềm tin của dân tộc và càng lâm vào thế kẹt.

2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ thích hợp cho một xã hội có nền kinh tế công hữu và tập thể, phân phối bao cấp từ hạt gạo đến bó rau và đóng cửa với thế giới bên ngoài. Đổi mới kinh tế đã làm cho hệ thống chính trị không còn tương hợp, trở thành chiếc áo cũ rách. Các giá trị hôm qua đặt vào thực tế hôm nay hóa ra khôi hài.

Suốt 20 năm đổi mới, các kỳ Đại hội Đảng cứ khất lần khất lữa việc định nghĩa ”Cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” có nội dung gì? Và “Vai trò vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng” có gì thay đổi? Nếu chỉ nêu mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không có gì khác các quốc gia dân chủ, nhưng so ra họ còn làm tốt hơn mình! Đến khóa 10 này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thấy không thể kéo dài mãi, đã tìm cách giải đáp ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 từ ngày 14 đến 22 tháng 1 năm 2008 như sau:

“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội” (Tài liệu học tập các nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2008, trang 33). Các nhà lý luận của Đảng quên rằng: “Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội ra đời và bắt đầu phát sinh tác dụng cùng với việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; phạm vi hoạt động của nó được mở rộng theo đà củng cố và phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tư liệu sản xuất trở thành sở hữu công cộng làm cho nền sản xuất không phải để phục vụ cho việc phát tài và làm giàu của cá nhân hay một giai cấp…” (Từ điển kinh tế, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976, trang 455). Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân phát triển, xung khắc với quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội như nước với lửa, làm sao chịu được sự chi phối của nó?

Giai cấp công nhân đang nơm nớp lo bị mất việc làm. Nghe nói mình có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, họ bảo nhau: “Mấy ông này hay thiệt, vừa đại diện cho công nhân lại vừa là tư bản đỏ!” Hơn 2500 cuộc đình công (chỉ tính đến giữa năm 2008) của công nhân không có sự chỉ đạo của tổ chức công đoàn do Đảng lãnh đạo, đã nói lên niềm tin của họ đang đặt vào đâu.

Nói về chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx Kornai János người Hungary cho rằng: “Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày ý thức hệ giả mạo khi dẫn chiếu đến chủ nghĩa Marx. Cái hệ thống mà Đảng Cộng sản ngự trị về cơ bản mang tính tư bản chủ nghĩa, vì sở hữu tư nhân đã trở thành hình thức sở hữu áp đảo, và bởi vì cơ chế điều phối chính là cơ chế thị trường”. Nhận định đó hoàn toàn đúng đối với đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do không chịu công nhận Đổi mới là vứt bỏ những nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội và do tiếp tục duy trì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin, Đảng đã làm cho xã hội đầy dẫy những hiện tượng thực giả lẫn lộn, nói một đằng hiểu một nẻo, đạo đức xuống cấp trầm trọng!

Nói “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, người dân thắc mắc: ”Trong lịch sử chưa có ai làm chủ mà không được lãnh đạo, lại còn bị người khác lãnh đạo!”

Nói “thông qua dân chủ bầu cử Quốc hội”, người dân bảo: “Lâu nay vẫn là Đảng cử, Dân bầu!”

Nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, người dân bảo: “Quốc hội bao giờ cũng họp sau khi Đảng đã họp và đề ra nghị quyết chỉ đạo cho Quốc hội phải làm gì. Vừa qua Bộ Chính trị quyết định đại dự án Bauxite đâu có cần thông qua Quốc hội!”

Nói đảng viên cán bộ là đày tớ của nhân dân, mấy ông hai lúa cười: “Cả đời mình làm chủ mệt mỏi quá rồi, cầu mong mấy đứa nhỏ sau này có đứa được làm đày tớ cho cả dòng họ được nhờ!”

Nói “Sống và làm việc theo pháp luật”, “Mọi người bình đẳng trước pháp luật”, người dân bảo: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa, tư pháp do Đảng lãnh đạo. Người có chức có quyền mới tham nhũng, mà có chức có quyền thì phải là đảng viên, vậy tư pháp làm sao dám xét xử tham nhũng? Hãy coi Tòa án Hà Nội, rồi Tòa án Tối cao cứ như gà mắc tóc trước vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì biết tư pháp Việt Nam được độc lập cỡ nào!”

Nói chúng ta đã thực hiện tốt quyền tự do báo chí, người dân hỏi: “Không nghe ông Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông bảo: ‘Phải đi đúng lề phải mới có tự do báo chí’ đó sao?”. Mới đây ông Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đảng giao cho nhiệm vụ vận động nhân dân phản biện các chính sách của Đảng, nhưng suốt mấy năm, Mặt trận vẫn chưa làm tốt. Xin hỏi, có cách nào để làm tốt được đây, khi mà phản biện chỉ được phép nói trong cái “vòng kim cô” của nghị quyết Đảng? Ai chẳng sợ lỡ miệng ra ngoài vòng sẽ bị thiệt thân? Các ông Nguyễn Mạnh Tường Luật sư Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kim Ngọc Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, Trần Xuân Bách Ủy viên Bộ Chính trị, là những nhà phản biện dũng cảm đã bị trừng phạt như thế nào ai chẳng biết!

Mới đây, Viện Nghiên cứu Phát triển IDS do Giáo sư Hoàng Tụy làm Chủ tịch Hội đồng, Tiến sĩ Nguyễn Quang A làm Viện trưởng, đã phải tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết định 97 của Thủ tướng Chính phủ hạn chế quyền được nghiên cứu và phản biện. Ngày 15 tháng 9 năm 2009, Mặt trận Tổ quốc họp báo về Đại hội lần thứ 7, có nội dung “tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng đại đoàn kết toàn dân”. Làm sao đồng thuận được khi không có phản biện dân chủ mà chỉ có quyết định từ trên dội xuống?

Các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân loại tiến bộ khi vào Việt Nam đều phải co lại cho vừa cái khung xã hội chủ nghĩa. Cách hiểu, cách làm của Việt Nam trái với các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã cam kết thực hiện. Năm nào Việt Nam cũng bị lên án vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền và bị xếp hạng vào cuối bảng của các nước trên thế giới. Phản ứng của Nhà nước Việt Nam luôn luôn là “Nhận thông tin sai lạc với thực tế Việt Nam”, hoặc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam”, nặng nề hơn nữa là “âm mưu của các thế lực thù địch hòng chống phá Việt Nam”. Chúng ta chấp nhận hội nhập với cộng đồng nhân loại, làm bạn với tất cả các nước, nhưng lại không đồng ý với người ta về những giá trị phổ biến của nền văn minh nhân loại là: xã hội công dân, sở hữu tư nhân, nhà nước pháp quyền và chế độ dân chủ đại nghị. Chủ nghĩa xã hội thế giới đã thất bại vì phủ định những giá trị phổ biến đó, cố tìm những giá trị khác (xã hội toàn trị, công hữu, kế hoạch hóa quan liêu bao cấp, chuyên chính vô sản, dân chủ tập trung xã hội chủ nghĩa) hòng thay thế, rồi lâm vào ngõ cụt và bị sụp đổ!

Trong bài phát biểu với Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 30-6-2009) ông Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quá trình cầm quyền với hình thức quản lý chuyên chính vô sản, với nguyên tắc tập trung dân chủ, xã hội chưa bao giờ được hưởng quyền tự do dân chủ đích thực”. Và ông xin phép lưu ý: “Nếu xã hội… họ cảm thấy áp lực chuyên chế nặng nề lắm thì không thể tránh được những biến động xấu, rất xấu có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Chính hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin đã làm suy yếu các khả năng chống tham nhũng, hiểm họa nội xâm của đất nước.

3. Nhiều người già ở Sài Gòn cho rằng tham nhũng hiện nay đã vượt xa chế độ Sài Gòn cũ. Có thể bào chữa rằng tham nhũng là vấn đề toàn cầu chứ có riêng gì mình. Vâng, nhưng tham nhũng ở các quốc gia dân chủ có nhiều thứ thuốc trị mà ta không có. Khi báo chí đưa tin Hoa Kỳ vừa bắt 44 người tham nhũng thì các ông già thạo tin bảo: “Nếu nước ta có cơ quan tư pháp độc lập như họ thì chỉ riêng quận mình thôi, số tên tham nhũng bị bắt cũng vượt xa con số của cả nước Mỹ!”

Có lẽ trên thế giới không nước nào có nhiều cơ quan có chức năng chống tham nhũng bằng nước ta. Đảng có Ủy ban Kiểm tra, Nhà nước có Tổng Thanh tra, các Bộ, các ngành, các đoàn thể, ở từng cấp đều có tổ chức thanh tra, kiểm tra. Có rất nhiều nghị quyết chỉ đạo chống tham nhũng. Một Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng làm Trưởng ban Chống Tham nhũng Trung ương. Các Đảng ủy được nhắc nhở phải coi chống tham nhũng là trách nhiệm lớn. Thế nhưng, tham nhũng đã xảy ra ở ngay các Đảng bộ đạt tiêu chuẩn “4 tốt”, danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh” như: Văn phòng Chính phủ, Đảng ủy Bộ Giao thông Vận tải, Đảng ủy PM18, Đảng ủy dự án Đại lộ Đông-Tây… Vì sao tham nhũng ở Việt Nam “kháng thuốc” ghê gớm vậy?

Có 3 nguyên nhân:

(a) Ở các quốc gia dân chủ họ có nền tư pháp độc lập, có thể buộc tội cả Tổng thống, còn pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Tay này sao nỡ chặt tay kia!

Trả lời sao đây khi bao nhiêu vụ án lớn không nhúc nhích:

– Vụ PMU 18 còn đó mà các nhà báo viết về nó đã phải đi tù;

– Vụ PCI dù người Nhật đã khai hối lộ cho Huỳnh Ngọc Sĩ, nhưng sau nửa năm, Sĩ chỉ bị khởi tố về tội cho thuê nhà! Dư luận tin rằng Sĩ không thể nuốt trôi khối đô la khổng lồ nếu không chia cho các vị thượng cấp có liên quan trách nhiệm đối với công trình này;

-Năm 2006, cảnh sát Đức phát hiện Siemens chuyển hơn 241.000 Euro vào tài khoản ở Singapore của một quan chức Việt Nam. Đến nay cảnh sát Việt Nam chưa động đậy;

– Năm 2008, một Việt kiều bị truy tố “hối lộ 150 nghìn đô la để bán được thiết bị cho một dự án ở Vũng Tàu”. Đến nay phía Việt Nam chưa có ý kiến gì;

– v.v…

(b) Ở các nước dân chủ có hệ thống báo chí được gọi là “quyền lực thứ tư”. Báo chí “lề phải” của chúng ta luôn luôn phải chờ được phép mới dám đưa tin. Trước đây các phóng viên viết bài chống tham nhũng cứ chờ cơ quan điều tra của Bộ Công an cung cấp tài liệu. Từ khi hai phóng viên của báo Tuổi trẻ và báo Thanh niên dùng tài liệu của công an để viết bài mà vẫn bị xử tù thì những cây bút chống tham nhũng của báo chí Việt Nam càng co lại giữ mình.

(c) Các quốc gia dân chủ đều có các đảng đối lập luôn luôn săm soi mọi hành vi sai trái của đảng cầm quyền. Do đó các đảng cầm quyền phải có nhiều biện pháp quản lý đảng viên giúp họ tránh các cạm bẫy. Còn ở nước ta, Đảng một mình một chợ, đảng viên chẳng cần giữ ý, không sợ bất cứ ai!

Tại Hội nghị Trung ương 3, tháng 7 năm 2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có nhận định rất đúng rằng: “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Từ đó đến nay, ba năm đã trôi qua, tham nhũng không hề nao núng bởi nhận xét của ông. Vậy thì liệu rằng sẽ có lúc chính chế độ phải nao núng bởi tham nhũng?

IV. Nêu bốn câu hỏi, trước khi trình giải pháp

1. Ông Lý Quang Diệu cho rằng năm 1975, Sài Gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng Cốc, nhưng 20 năm sau Sài Gòn tụt hậu so với Băng Cốc 20 năm. Vì sao? Có phải chỉ vì Băng Cốc có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công thương nghiệp tư bản, trong khi đó Sài Gòn ra sức cải tạo công thương nghiệp tư bản? Nhìn rộng ra, tại sao tất cả các nước theo chủ nghĩa xã hội đều nghèo đói so với các nước phát triển tư bản? Nhiều nhà lý luận Mác-Lê sang các nước tư bản phát triển thừa nhận rằng ở các nước này ”có nhiều xã hội chủ nghĩa” hơn Liên Xô, Đông Âu! Cứ xem hai quốc gia bị chia cắt là Đức và Triều Tiên, bên theo chủ nghĩa xã hội thì nghèo đói, bên phát triển tư bản chủ nghĩa thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh. Nước ta từ khi Đổi mới, tức là từ bỏ những nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tự do kinh tế thì sức sản xuất được giải phóng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Như vậy làm sao có thể nói đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt? Lenin từng cho rằng trong cuộc cạnh tranh “ai thắng ai”, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào có năng suất lao động cao hơn. Nếu chủ nghĩa xã hội có năng suất cao hơn thì đâu đã bị “hạ gục” (chữ của Tổng thống Mỹ Obama)? Có phải chế độ công hữu triệt tiêu động lực cá nhân trong lao động sáng tạo làm cho năng suất lao động xã hội sa sút?

2. Ngày nay, toàn thế giới đều biết trước đây ở Liên Xô, chính quyền Xô-viết đã thủ tiêu hàng vạn cán bộ cao cấp, hàng triệu dân lành, cấm phát hành nhiều tác phẩm tiến bộ và đày ải các tác giả của nó, kể cả những người đoạt giải Nobel. Ở Trung Quốc, Đại Cách mạng Văn hóa vô sản đã giết hàng [chục] triệu người, trong đó có cả Chủ tịch nước, nhiều ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng và các nhà văn hóa lớn. Ở Campuchia, Đảng Cộng sản (từng là đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời chống Mỹ) đã gây ra họa diệt chủng chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tất cả các đảng cộng sản ở Đông Âu, Cuba, Bắc Triều Tiên đều có những trang sử đen về nhân quyền. Có lẽ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam mềm hơn tất cả? Nhưng dù vậy, chúng ta cũng đâu có thiếu những ngày tháng nhắc tới không khỏi đau lòng: Cải cách Ruộng đất, chống Nhân văn – Giai phẩm, Cải tạo Công Thương nghiệp ở miền Bắc, Chỉnh đốn Tổ chức, Thanh trừ bọn xét lại chống Đảng, Cải tạo Tư sản miền Nam và những cán binh của chính quyền Sài Gòn, gây ra cảnh hàng triệu người vượt biển, một thảm họa “thuyền nhân”!

Có phải vì ý thức hệ cộng sản, độc quyền tư tưởng, triệt tiêu tư duy độc lập tự do sáng tác, phát minh, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến bộ, coi lập trường giai cấp, một khái niệm rất mơ hồ là nền tảng đạo đức, từ đó đẻ ra tình trạng tay phải chặt tay trái, đồng chí giết nhau, lương giáo nghi kỵ, con tố cha, vợ tố chồng?

3. Qua hơn 20 năm đổi mới, một lớp doanh nhân (Đảng muốn gọi tránh, chứ đúng ra phải gọi đúng tên là giai cấp tư sản) đã hình thành, trong đó có khá đông đảng viên cộng sản và con em họ.

Dù cho rằng phải đổi mới nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng đổi mới thế nào cũng không thể vượt khỏi các nguyên lý của nó. Trước Đổi mới, chỉ cần diễn đạt khác các với các nguyên lý giáo điều chút xíu đã bị lên án là xét lại, chống Đảng, đã phải đi tù. Đó là tội của các đồng chí Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang… Đổi mới đến mức không còn các nguyên lý cũng tức là từ bỏ chủ nghĩa xã hội! Đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ Đại hội 6 đến nay thực sự đã từ bỏ hết các nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Marx và Engels đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Sự thật năm 1974, trang 70) và “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước” (Sách trên, trang 78).

Vậy nếu không phải là từ bỏ vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sách lược, cho phép giai cấp tư sản tồn tại trong “giai đoạn quá độ” thì có nghĩa là rồi đây Đảng sẽ có chính sách “từng bước một đoạt lấy” như đã từng làm trong quá khứ? Nhưng lần này liệu những đảng viên cộng sản (số rất đông) và con em họ, những “tư sản đỏ” có chấp nhận chính sách đó hay chống lại? Và toàn dân Việt Nam liệu có đồng ý thực hiện cái chính sách từng kéo lùi Sài Gòn tụt hậu 20 năm so với Băng Cốc? Nếu tính chung cả nước ta thì sự tụt hậu và nỗi đau đớn do chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin gây ra còn ghê gớm hơn nhiều!

4. Vậy thì vì lý do gì Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết kiên trì chủ nghĩa xã hội?

Rốt lại, chỉ vì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản! Nhưng giữ nó thì phải gánh chịu “3 điểm yếu” từng ngày bào mòn “3 thế mạnh” của Đảng, còn bỏ nó liệu có phiêu lưu như Chủ tịch Nguyễn Minh Triết từng cảnh báo: “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”?

Không! Tôi cho rằng trái lại, bỏ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa sẽ đem lại rất nhiều điều thần kỳ cho Đảng và cho Đất nước.

Tháng 7 năm 2009, ông Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội, có 4 bài viết và trả lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam, nêu những tiêu đề: “Giờ là lúc phải đổi mới toàn diện”; “Tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn Lý Quang Diệu” (Ông Lý Quang Diệu từng có ý kiến cho rằng việc hoạch định chính sách phát triển đất nước đừng để ảnh hưởng của ý thức hệ); “Dân là gốc, pháp luật là tối thượng”; “Dân là gốc thuộc phạm trù vĩnh viễn, Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử”; “Không ai độc quyền chân lý”, “Qua tranh luận, thử thách trong cuộc sống… có khi phải thay đổi nhận thức tới 180 độ”. Những ý kiến trên đây của ông Nguyễn Văn An gợi ra nhiều điều quan trọng cho nội dung Đổi mới toàn diện.

Trong bài phát biểu nhân Kỷ niệm Quốc khánh 2-9-2009, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới”. Chúng ta đã đổi mới ngoạn mục về kinh tế, nay “Đổi mới toàn diện” như Tổng Bí thư tuyên bố chính là yêu cầu cấp thiết của toàn dân tộc. Tiếc rằng, Tổng Bí thư chưa nói rõ thế nào là Đổi mới toàn diện.

Chúng tôi nghĩ rằng Đổi mới toàn diện cần theo những nguyên tắc sau đây:

“Đổi mới phải phù hợp với trào lưu thời đại của nhân loại ở thế kỷ XXI; phải có tác dụng tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải Đổi mới tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội và chính trị”.

V. Bỏ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: Một mũi tên trúng nhiều đích

1. Từ đây, Đảng và dân tộc ta thực sự trở lại với tư tưởng Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh (như Giáo sư người Nhật Yoshiharu Tsuboi nhận định) đã được thực thi sau Cách mạng tháng Tám: Một Chính phủ liên hiệp thể hiện quyền làm chủ rộng rãi của toàn dân Việt Nam đoàn kết; một bản Hiến pháp 1946 tiến bộ, quy định rõ tổ chức quyền lực Nhà nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân trong xã hội dân sự.

Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Hồ Chí Minh là một người không giáo điều, ý tưởng nào có thể áp dụng để đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc thì người chấp nhận. Người chịu theo Quốc tế 3 chỉ vì bản Cương lĩnh của Lenin ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1930, “Chánh cương đoàn kết dân tộc” do người soạn thảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm Stalin nổi giận: đó là chủ nghĩa dân tộc, không phải cộng sản! Năm 1945, người tuyên bố tự giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương để có thể tranh thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước đồng minh, tránh cho dân tộc không phải gánh chịu cuộc chiến tranh tái xâm lược của thực dân Pháp. Chính các thế lực đế quốc của Pháp và Mỹ đã buộc cụ Hồ phải dựa hẳn vào phe cộng sản.

Tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh là:

“Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam!”

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.”

“Không có gì quý hơn Độc lập Tự do!”

“Nếu nước đã được độc lập mà nhân dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.”

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.”

Chính vì thế mà một nhà sử học Anh cho rằng, từ những ứng xử của người trong lịch sử có thể tin chắc, nếu còn sống Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là người khởi xướng đổi mới một cách sớm sủa và mạnh mẽ.

Trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta là “Đảng Việt Nam” sẽ được toàn dân tộc vui mừng, tin tưởng. Một chính quyền thực sự là của Dân, do Dân, vì Dân, rũ bỏ được các khuyết tật đã kể ở trên. Một xã hội dân sự, người dân có đầy đủ tự do, dân chủ, nhân quyền như các nước tiên tiến. Nước ta thực sự hội nhập với thế giới trong mọi giá trị văn minh của nhân loại. Từ nay không còn mang nỗi lo quái gở là sợ bị “diễn biến hòa bình”! (Gọi là quái gở bởi vì toàn nhân loại tiến bộ không có ai lo như thế. Trái lại ở nước Singapore, người ta còn cho rằng “Thế giới đã thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi là chết!”). Từ nay không còn nơm nớp lo “Các thế lực thù địch phương Tây can thiệp vào nội bộ”. Và quan trọng hơn là từ nay ở vị thế mới trong cộng đồng các quốc gia tiến bộ văn minh của nhân loại, chúng ta mặc nhiên có những đồng minh chiến lược trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Có đồng minh chiến lược không phải để gây chiến với bọn bành trướng mà là để có đủ sức mạnh nói chuyện hòa bình, buộc chúng thực thi công lý, đòi lại biển đảo bị chúng chiếm đoạt bất hợp pháp.

Với Nhà nước pháp quyền, với lực lượng truyền thông “đệ tứ quyền”, có sự phản biện của xã hội dân sự, “giặc nội xâm” cũng sẽ bị đẩy lùi.

2. Đổi mới Đảng, từ bỏ ý thức hệ cộng sản sẽ là phép màu san bằng rào cản, hòa giải hòa hợp với 3 triệu đồng bào ở nước ngoài, những người yêu nước, có tri thức, có tấm lòng, nhưng không tán thành chủ nghĩa cộng sản và bị ám ảnh rất nặng nề bởi nỗi oán hận từ quá khứ. Từ đây sẽ không còn những cuộc biểu tình chống đối chính quyền trong nước, ngăn cản bà con muốn về xây dựng quê hương. Từ đây các em sinh viên ưu tú du học ở các nước tiên tiến, tiếp thụ các lý tưởng dân chủ không còn nỗi bức xúc, quay ra hoạt động chính trị đối lập với Nhà nước rồi lâm vào cảnh tù tội oan uổng.

Sức mạnh toàn dân tộc sẽ tăng lên gấp bội giúp cho sự nghiệp canh tân đất nước có hiệu quả hơn bao giờ hết. Lịch sử sẽ ghi nhận hành động dũng cảm triệt để đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là mở ra con đường đại phúc cho dân tộc!

3. Đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên, liệu sự chọn lựa này có làm mất quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau khi đã là Đảng của dân tộc) hay không? Đã đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên thì không nên tính toán hơn thiệt. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng không có một đảng nào có thế mạnh từ lịch sử như Đảng Cộng sản Việt Nam (tiền thân của một Đảng dân tộc được kế thừa Đảng Cộng sản Việt Nam). Là một Đảng lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, rồi chủ xướng đổi mới, cuối cùng dám từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để tự biến mình hoàn toàn thành Đảng của Dân tộc. Vậy thì trong tâm tưởng người Việt Nam yêu nước còn có thế lực nào đáng gửi gắm niềm tin là có đủ tài, đủ đức lãnh đạo đất nước hơn một Đảng như thế?

4. Khi đã có Cương lĩnh đề ra mục tiêu và nội dung đổi mới, Đảng sẽ định một lộ trình thật khoa học để từng bước thực hiện sự nghiệp trọng đại này một cách chắc chắn.

(a) Nhà thơ Thanh Thảo cho rằng: Nên trở về với Hiến pháp 1946, đó là Hiến pháp tiến bộ và dân chủ nhất từ trước tới nay ở Việt Nam; nên trở về với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của người lao động cũng là của nhân dân Việt Nam. Như vậy không phải tạo ra đảng mới nào cả mà vẫn là mới so với hiện nay. Nên khôi phục lại hai Đảng Xã hội và Dân chủ đã từng có, để tập hợp những người trí thức yêu nước và giữ vai trò phản biện dân chủ (Thư gửi Thiện Ý).

(b) Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng nên từ thực tế hôm nay mà tìm lối ra thích hợp hơn là quay lại cái cũ. Ví dụ, bắt đầu luật hóa Điều 4 để sự lãnh đạo của Đảng không là đảng trị. Xây dựng luật bầu cử đảm bảo quyền tự do ứng cử bầu cử của nhân dân, để Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, hệ thống chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân. Xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập để Chính phủ điều hành việc nước bằng pháp luật và chịu sự giám sát của nhân dân theo pháp luật. Cuối cùng khi đến lúc đủ điều kiện sẽ soạn lại Hiến pháp theo đúng tinh thần Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân và phù hợp với lương tri của đa số các dân tộc trong thời đại ngày nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam có thể theo cách của Đảng Xã hội Pháp hồi 1920: Những người muốn đảng trở thành Đảng của dân tộc và những người muốn giữ nguyên Đảng Cộng sản tách nhau ra thành hai đảng. Sau đó, tổ chức trưng cầu ý dân bằng một cuộc bỏ phiếu kín chọn đảng lãnh đạo từ hai đảng này. Đảng không được nhân dân chọn làm lãnh đạo sẽ trở thành đảng đối lập.

Tôi muốn nhắc lại bài học của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trước đây để càng thêm tin tưởng việc triệt để Đổi mới Đảng:

Khi chấp nhận hình thức Chính phủ Liên hiệp, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã mở Đại hội đề ra Cương lĩnh mới, tuyên bố từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đổi tên đảng thành Đảng Nhân dân Campuchia (bỏ từ Cách mạng với ngụ ý trở thành Đảng của dân tộc). Đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam dự Đại hội này là ông Lê Đức Anh, nguyên cố vấn cho đảng bạn, đã tức giận cho rằng “Chưa thua mà đã cuốn cờ!” (ý nói cờ cộng sản). Lúc ấy thế và lực của Đảng Nhân dân Campuchia rất yếu so với Đảng Bảo hoàng của Ranariddh được uy tín của Sihanouk và Nhà nước Vương quốc yểm trợ. Vậy mà từ vị thế phải chia đôi quyền lực Nhà nước (2 ông Thủ tướng, 2 ông Bộ trưởng, cho tới các cấp dưới…) Đảng Nhân dân Campuchia đã vượt lên sau mỗi nhiệm kỳ và ngày nay hoàn toàn ở thế thượng phong so với các đảng đối lập.

Đảng Cộng sản Việt Nam có những ưu thế tuyệt đối mà Đảng Nhân dân Campuchia ngày ấy không thể sánh. Do đó giải pháp triệt để đổi mới Đảng, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, trở thành Đảng của dân tộc, không hề là phiêu lưu mà là một hành động sáng suốt, bắt đúng nhịp của thời đại, đáp ứng đúng nguyện vọng của dân tộc, nhất định Đảng sẽ cùng Dân tộc đồng hành tới tương lai vô cùng xán lạn!

(Nguồn: Mạng bauxitevietnam, viet-studies, talawas)

Được  biết vào 4h30 hôm nay – chủ nhật, 13/09/2009, chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – blogger Mẹ Nấm đã được thả sau 1 tuần bị công an Khánh Hòa bắt giữ trái với các thủ tục tố tụng và hình sự (*).

Xin chúc mừng Mẹ Nấm, 1 niềm vui cho ngày chủ nhật tới những blogger/người đọc Việt có lương tri.

Kể từ rày, Mẹ Nấm đã phải đóng blog từ đây, nguyên nhân nào thì ai cũng rõ, ai cố tình không rõ có thể tham khảo thư dưới đây.

Hy vọng đây không là 1 dấu chấm hết cho bản trường ca Yêu Nước đã và đang được đa số người Việt Nam hòa âm, sẽ chỉ là 1 âm nhấn cao cho những âm cao khác. Chúc Mẹ Nấm không dứt lửa dù dưới những hình thức nào. Xa lộ thông tin có rất nhiều lằn đường.

Mình cũng xin giải thích dài dòng 1 chút ở đây, nếu không chắc chắn sẽ có người lại châu mỏ dè bỉu này nọ. Ý nói những người Việt có lương tri, hiểu rõ sự tình, sẽ thông cảm và chia sẻ niềm vui này là thế nào ?

Mình là 1 người có khuynh hướng thiên về chủ nghĩa dân tộc cực hữu, mình bài trừ mọi yếu tối ngoại bang bành trướng, cố ý gây tác dụng xấu trực tiếp tới Việt Nam, bài trừ mọi chính quyền bất lực, ngu dân + bán máu quốc gia để được tiếp tục chuyên chế nắm quyền. Bạn có thể là 1 người yêu nước trung dung hơn, bạn không thích đứng vào hàng ngũ những chỉ trích gia cực hữu như mình. Nhưng thế là đủ để chúng ta hiểu nhau, vì chúng ta đã cùng trên 1 con thuyền hướng về Tổ quốc. Trừ những kẻ trà trộn vào – cố tình mù mờ tôn sùng 1 đảng phái độc quyền về chính trị để hưởng lợi từ đó, tất cả người còn lại hẳn phải ít nhiều có sự đồng cảm và gắn bó với nhau. Đó là những người Việt có lương tri.

Chú thích:

(*) : Diễn giải cho những sai phạm trong quá trình tố tụng và bắt giữ, theo luật sư Cù Huy Hà Vũ tại đây.

Ảnh và tin : Blog Mẹ NấmBauxiteVietNam

Việt Nam trả tự do cho blogger trước chuyến viếng thăm Australia

Vietnam frees blogger ahead of Australia visit

Nhiều người lấy đó làm mừng. Mình thì không cho rằng mọi chuyện đã đáng vui thế. Con cá nằm trên thớt, người ta bận thăm viếng đó đây, sợ điều tiếng nên bỏ tạm lại vào giỏ, ai dám chắc khi quay về người ta không lại lội cá ra để đập đầu.

Dù sao cũng mừng cho Lái Gió và nhà báo Đoan Trang.

Đợi tin về Mẹ Nấm.

(Nguồn tin : Reuters và BauxiteVietNam)

Dạo này tự dưng mình lười hẳn ra, chẳng viết lách chi cả.

Lười vì cái gì ? Có lẽ 1 chút hèn. Đâu đó Lái Gió, Mẹ Nấm v.v và v.v… đã bị tóm. Mình chắc cũng chỉ là 1 ngọn cỏ. Cỏ thì chẳng bao giờ cắt hết được nhưng có lá cỏ nào lại muốn mình bị cắt ngóm đi.

Lười vì cái gì ? Có lẽ 1 phần chỉ đơn thuần là lười. :)) Nếu thế thì tệ thật.

Đành thuổng 1 câu truyện đọc được sau khi đi lòng vòng trên net để đăng. Chắc các bạn nào gần tuổi băm giống mình sẽ thích. 1 nốt trầm cho suốt tháng qua, hẹn tháng tới sẽ có nhiều nốt thăng.

Là người tình, con đĩ, hay vợ ?

Người tình…

Người yêu tôi bây giờ là một người đơn giản, cô ấy không quá hiền và cũng chẳng có cá tính dữ dội mấy, cô ấy không tự design một món quà cho tôi, không bất ngờ đến trước cửa nhà tôi trao cho tôi một nụ hôn, không nhét một cái gối to vào bụng và tưởng tượng rằng chúng tôi sắp có con… không, cô ấy không làm những điều mà người yêu trước của tôi làm. Cô ấy chỉ đơn giản gọi cho tôi một cú điện thoại mỗi ngày. Nếu muốn đi chơi với tôi, cô ấy sẽ lên kế hoạch trong vòng mấy ngày trước. Đến ngày Valentine cô ấy tặng tôi một miếng chocolate hình trái tim, trơn bóng không như miếng chocolate mà người yêu trước của tôi tự làm, có tên tôi và tên cô ấy trên đó.

Có thể có sự khác biệt quá lớn trong cách yêu của hai người… và cho dù biết rằng… người yêu trước của tôi yêu tôi một cách dữ dội hơn… thì tôi cũng không dám sống trong tình yêu ấy, tôi sợ sẽ bị nhấn chìm… điều tôi cần là một tình yêu đơn giản, có thể dẫn đến hôn nhân thì càng tốt. Sau khoảng 2 tháng chia tay, tôi vẫn nhớ cô ấy nhiều lắm, tôi không thể bắt gặp cô ấy trong hình hài người yêu mới nên tôi thường tự thần ra một mình, người yêu mới của tôi thấy vậy cũng hỏi thăm nhưng cũng chỉ là hỏi thăm cho qua chuyện, cô ấy không quan tâm nhiều đến điều mà tôi đang nghĩ.
Bất ngờ một hôm… Tôi nhận được tin nhắn của người yêu cũ.
“Anh thế nào rồi? Anh có được hạnh phúc không?”
Tôi reply ngay sau đó.
“Không hạnh phúc lắm! Nhưng giản đơn là được, anh cần nó…”
Một lúc lâu tôi không thấy cô ấy reply.

Tay tôi vẫn cầm điện thoại, vẫn chờ một dòng tin nhắn. Một lúc… một lúc lâu nữa… Tôi không chịu được nữa… tôi phải gọi lại, phải nghe bằng được giọng của cô ấy… Bất chợt, tôi chưa kịp bấm số thì điện thoại của tôi reo… Số của cô ấy… tay tôi run như lần đầu tôi bấm số làm quen với cô ấy.
– Em à, có chuyện gì không? Tôi cố lạnh lùng.
– Mình làm người tình anh nhé…
– Vậy là sao?
– Anh không cần phải yêu em… chỉ cần anh đến bên em những lúc anh cần em… có được không anh?
– Ừ…
Tôi biết tôi ừ là vì tôi còn quá yêu cô ấy… và tôi không có cảm giác tội lỗi mấy với người yêu mới… đơn giản là vì tình yêu mới không có gì đặc biệt, nổi trội.
Chúng tôi gặp nhau ở một quán cà phê nhỏ và đầy hoa cúc cắm ở xung quanh các vách tường.
– Anh tưởng em thích các quán cà phê có gam màu trầm cơ mà?
– Ồ… quen em lâu như vậy mà anh cũng không biết là em dễ thay đổi hơn là một cái lật tay sao?
Tôi cười, cô ấy vẫn hóm hỉnh như vậy, vẫn duyên dáng như vậy.
Chúng tôi về nhà của cô ấy, yêu nhau cũng khá lâu rồi nhưng thực ra tôi chưa bao giờ lên nhà cô ấy, tôi chỉ đứng tiễn cô ấy ngoài cổng khu chung cư, cô ấy bảo cô ấy chỉ sống một mình nên không muốn đàn ông lên, sợ lắm chuyện phát sinh, tôi bật cười, tôi đâu đến nỗi dê như thế, mà bây giờ là thời đại gì rồi mà cô ấy còn sợ chuyện đó… Vậy mà bây giờ… cô ấy chủ động mời tôi lên nhà.
Mọi người hàng xóm và bác bảo vệ già có vẻ quí cô ấy, người mỉm cười, người chào cô ấy, riêng bác bảo vệ thì nháy mắt với cô ấy một cái.
– Con bé này. Thế là cũng chịu dẫn người yêu lên nhà rồi hả?
Cô ấy cười nụ…
Nhà của cô ấy quá rộng đối với người ở một mình… chúng tôi ngồi uống nước, nói chuyện, bất chợt, cô ấy cố ý dựa vào vai tôi, tôi ôm lấy vai cô ấy… chúng tôi ngồi lặng một lúc… rồi cô ấy kéo khuôn mặt tôi lại thật gần, thật gần… tôi vẫn còn nghe rõ… lúc nụ hôn buông lơi lần đầu… cô ấy tựa trán cô ấy vào trán tôi thì thầm: “Em nhớ anh… đã từng nhớ không chịu nổi…” Tôi hôn cô ấy mãnh liệt hơn… Và chuyện đó đã xảy ra. Đó là lần đầu của hai chúng tôi.
Người ta bảo hạnh phúc xuất phát từ tình yêu chân thực thường không thể đi đôi với thực tế cuộc sống. Nhưng trong tôi vẫn tham lam, vẫn muốn có cả hai, tôi cần một người tình như cố ấy, nhưng tôi lại cần người yêu như người yêu tôi, và tôi chấp nhận sự thoả hiệp của chính mình.

Con đĩ…


– Anh có biết định nghĩa của người tình không??? Cô ấy nói trong tư thế nằm sấp và tay chống cằm.
– Không, cũng chưa bao giờ anh suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này.
– Một người tình thì kém xa một người yêu và hơn con đĩ một tẹo.
– Con đĩ… em nói nghe kinh quá.

Cô ấy không nói gì thêm, chỉ cười.

Chúng tôi duy trì quan hệ được hơn một năm. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc… nhưng lý trí của tôi vẫn đè bẹp hạnh phúc thực tại này. Có lẽ tôi sinh ra đã vậy. Không có từ mơ mộng mang tên cuộc sống. Tôi quyết định cưới vợ, không phải cô ấy mà là người yêu mới của tôi.
Khi tôi nói chuyện này với cô ấy, cô ấy không hề biểu lộ chút ngạc nhiên, thậm chí cô ấy còn lạnh lùng nói:- Anh này… anh không tính giá cả cho những lần chúng ta quan hệ hay sao???
Tôi giật mình, tôi nghĩ cô ấy nói đùa… tôi cười xoà.
Mặt cô ấy đột nhiên nghiêm lại:
– Em nói nghiêm túc đấy. Không có gì là không có giá đâu.
Tôi không tin vào đôi tai mình nữa. Hoá ra tôi yêu nhầm một con đĩ mất rồi. Tôi vẫn cố cười.
– Bao nhiêu hả em?
– Tuỳ tâm anh thôi…
– OK! Mai anh sẽ mang đến, hôm nay anh không mang nhiều tiền.
Hôm sau, tôi mang một phong bì tiền gồm 2000$ đến nhà cô ấy… Trong đó tôi còn để kèm mảnh giấy “Gửi em đĩ thân yêu, thế này đã đủ chưa? Nếu chưa đủ thì bảo anh đưa thêm nhé, cảm ơn em đã vui vẻ cùng anh, à mà với mấy thằng khác em đừng đòi trọn gói như thế nhé, xong ca nào dứt điểm ca ấy đi”… Tôi biết tôi quá cay độc khi viết những dòng ấy nhưng tôi quá tức giận.
Cô ấy không liên lạc với tôi nữa. Cuối năm, chỉ còn 3 tháng nữa là cuối năm… tôi chuẩn bị cho lễ cưới.
Tôi và vợ tôi sống lặng lẽ, đời sống tâm hồn hay chăn gối đều không sâu sắc… Được gần một năm, tôi phát hiện ra cô ấy ngoại tình, không đau khổ, giằng xé, chỉ hơi ngạc nhiên… Chúng tôi chia tay nhau trong sự thoả thuận ngầm rằng chưa có con cái quả là một điều may mắn.
Tôi bắt đầu nhớ đến người yêu cũ… Cô ấy thế nào rồi, có chồng chưa, hay vẫn là một con đĩ bao trọn gói.
Tôi quyết định đến thăm nhà cô ấy. Đứng ngoài cửa tôi nghe thấy tiếng trẻ con khóc, có lẽ cô ấy đã có gia đình, ít nhất tôi cũng không phải ngại vì sợ phải bắt gặp cảnh cô ấy đang nằm với một người đàn ông khác.
Tôi gõ cửa. Một người phụ nữ ra mở cửa.
– Anh hỏi ai?
– Cho tôi hỏi Thư có nhà không?
Cô ấy không nói gì, lẳng lặng mời tôi vào uống nước. Xong đâu đấy cô mới chậm rãi kể chuyện…

– Cách đây gần một năm chính vì đứa bé này, con bé Thư nhà tôi đã đánh đổi chính mạng sống của nó.
Tôi đau nhói trong tim.
– Thư chết rồi hả chị? Chị không đùa chứ? Tại sao hả chị?
– Ừ! Hồi đó, bác sĩ khuyên nó là phá cái thai đi, nó bị bệnh tim, sinh con rất nguy hiểm, nhưng nó nhất quyết không chịu.
Tôi bàng hoàng… thì ra đây là sự thật. Sự thật đến chói tai và nhói lòng. Tôi ngồi thừ một lúc rồi bất chợt lên tiếng.
– Vậy bố đứa trẻ đâu?
– Con Thư nó là người đặc biệt, nó luôn làm những điều không ai đoán trước được, và có lẽ bố đứa trẻ là điều mà nó cũng muốn giữ kín… Nhưng tôi có một tấm hình nó giữ… hình như là của người đó… và hình như… đó là cậu. Đúng rồi, bây giờ tôi mới để ý… hình như đúng là cậu.
Chị dẫn tôi vào phòng Thư. Căn phòng vẫn nguyên cách trang trí. Những kỉ niệm xa xăm ùa về thấm đẫm nước mắt… Chị mở một hòm nhỏ và cầm ra một bức ảnh. Đúng rồi, đây là ảnh tôi, tôi nhớ hồi yêu nhau cô ấy xin tôi một bức ảnh để cài vào ví. Chị đưa thêm cho tôi một phong bì.
– Đây là tiền của Thư đưa tôi, bảo khi nào con nó lớn thì đưa cho con nó, nó đề phòng nếu nó sinh con mà không may ra đi, tôi cũng khá ngạc nhiên, nó có dư tiền trong tài khoản vậy mà nó phải cần 2000$ trong phong bì này đưa cho con nó là sao? Tôi nghĩ đó là của bố đứa trẻ. Có lẽ đó là cậu. Tôi nói có đúng không?… À, nó còn giữ một bức thư nhỏ, có lẽ là gửi cho cậu, tôi không dám dở ra xem.
Tôi vội vàng dở bức thư… màu chữ đã hơi hoen đi một tí. Không phải bức thư dành cho tôi… mà là bức thư… tôi đã dành cho cô ấy…
“Gửi em đĩ thân yêu, thế này đã đủ chưa? Nếu chưa đủ thì bảo anh đưa thêm nhé, cảm ơn em đã vui vẻ cùng anh, à mà với mấy thằng khác em đừng đòi trọn gói như thế nhé, xong ca nào dứt điểm ca ấy đi”…
Hình như là… tôi đã nhầm con đĩ với một người tình… à không… không phải người tình… mà là người yêu… mà cũng chẳng phải… là vợ tôi… thực sự là vợ tôi!!!

(Nguồn: 24h.com)

(Kết thúc cho bài thu hoạch đầu – Xem lại phần 1 tại đây, phần 2 tại đây, phần kết luận 1 tại đây)

Đầu tiên mình xin trả lời câu hỏi của 1 vài bạn: Tại sao sau khi đọc 1 quyển sách nước ngoài, không là 1 kết luận chung chung mà cứ phải áp ngay vào so sánh với nước mình ?

– Thứ nhất, vui lòng chia sẻ quan điểm của mình: Việt Nam hiện đang trong giai đoạn khó khăn, bao gồm cả những khủng hoảng vào niềm tin ý thức hệ, sự bất tín nhiệm chính quyền đang bùng nổ sau 1 thời gian bị lấp liếm che đậy, thái độ thờ ơ chính trị – suy đồi phong cách và ý thức sống lan rộng trong giới 8x trở lên. Lớn hơn cả là hiểm họa an ninh quốc gia tới từ hướng Bắc. Trong hoàn cảnh hỗn tạp này, ý thức 1 cách chủ động kinh nghiệm kiến tạo một đất nước “nhỏ mà không nhược” – chẳng những có ích với quá trình sửa lỗi (ở khía cạnh nhà nước), quan trọng hơn nhiều, nó có thể phần nào giúp thức tỉnh thái độ lưu vong trên chính quê hương mình của số đông (ở khía cạnh nhân dân) – vốn thường được biện giải bằng sự đớn hèn chính trị, bằng sự hiểu biết chính trị mù mờ.

– Thứ hai, là do mình ít hiểu biết, những kết luận chung chung áp lên toàn bộ các quốc gia ngoại bang khác mà không có dẫn dụ hợp lý, đều là sự lố bịch. 2 quốc gia nằm cùng 1 khu vực Việt Nam-Singapore, đó là so sánh dễ thấy nhất những sự to-nhỏ, dài-ngắn, khôn ngoan-ngu dốt, trong sạch-vẩn đục, chắt chiu-hoang phí, dũng cảm-hèn hạ, hy sinh-ích kỷ.

3. Đối lại sự lựa chọn và chờ đợi : Sự thiếu kiên nhẫn và bừa phứa – Những dự án gấp rút hay những dự án buộc phải vội vã do có chủ đích ?

“Dự trữ chiến lược”, 1 trong những bài học cơ bản cho nhà điều hành đất nước. Dự trữ chiến lược là 1 biểu hiện cho sự phát triển có chọn lựa, không ngoài việc tích trữ nguồn lực cho hậu thế sau này – khi đã có đủ các điều kiện về con người, kỹ thuật v… – sử dụng sao cho giá trị nguồn dự trữ đó được phát huy tối đa.

Đất Singapore hẹp (652 km2), nguồn nhân lực Singapore ít. Chính vì thế chính quyền Singapore phải cân nhắc mỗi lời đề nghị dựng nhà máy. 1 nhà máy sản xuất lưỡi câu thủ công, dù có thể giúp xoa dịu tình trạng thất nghiệp, cũng không làm ông Diệu xiêu lòng. Phải là 1 nhà máy sản xuất với kỹ thuật tự động, hàng năm sản xuất hàng triệu lưỡi câu như Mustag. Ở Việt Nam, người ta đang nghĩ gì thế kia khi cấp phép cho những dự án rút máu của quốc gia lên bán (nguyên liệu thô thuần), rồi lãng phí vốn vay, đất đai ? Dầu thô, bauxite (dạng thô ở Tây Nguyên), than (than thổ phỉ ở Quảng Ninh), vốn ODA (khoản nợ vay lấy được và xăm xẻ tích cực), đất giải tỏa với chiêu bài “sở hữu của toàn dân” v.v… tất cả đều phung phí và rẻ rúng như hàng cho không. Luận điệu “cứ có thì khai thác thôi” không chỉ thể hiện trình độ kém, tầm nhìn dài tày lóng tay, mà còn thể hiện sự vô trách nhiệm với lớp người mai sau. 1, 2, 3… thế hệ nữa, lớp người ấy sẽ còn những gì, ngoài những hồ bùn đỏ treo trên đầu, những vùng mỏ tan hoang nham nhở, những khoản nợ nước ngoài phải gánh qua nhiều kiếp ? Singapore đến cả nước mưa họ cũng nâng niu. Chúng ta thì để ai đó thản nhiên đào máu của Tổ quốc lên xuất khẩu, hàng quý, hàng năm ngồi nghe họ loa lên về mức tăng trưởng mà phần lớn nằm ở khoản bán máu kia.

Hàng loạt giá trị tinh thần khác cũng đang bị giết chết bởi sự cuống cuồng đáng ngạc nhiên. Những làng nghề dệt chiếu, trồng hoa, dệt lụa, khảm cừ, vẽ tranh dân gian, thêu, làm quạt, làm bún, nghề mộc… truyền thống bị bỏ quên, bị giải tỏa trong cơn lốc sân golf, đất phân lô… nhân danh đô thị hóa. Chèo Đoài (Hà Tây) chết tức tưởi dưới những bàn tay bù nhìn, bẩn thỉu hoặc vô cảm biểu quyết trên 90% cho dự án khai tử Hà Tây, sát nhập vào Hà Nội trong khi nhân dân còn đang ngơ ngác, trong khi đề án còn sơ khởi, với những lý do nghe rất khó ngửi kiểu: Sát nhập vì Hà Tây trồng rau xanh cung cấp cho Hà Nội, giờ Hà Nội quản lý luôn cho tiện v.v. và v.v…

“Nhiệt tình + ngu dốt = Phá hoại” ? Hay còn tệ hơn thế: Các toan tính riêng cho cá thể, đảng phái, những cái bắt tay đã từ lâu lắc giữa những ông Tổng nhằm bán rẻ quốc gia ? Hơn 30 năm trước, ở Bạc Liêu cá còn tung tăng thò tay xuống là bắt được, sông Đồng Nai nước trong xanh không nề hà cho phép những kẻ lỡ độ đường có thể tắm rửa. Giờ đây thì sao ? 20 30 … năm nữa ? Sự ngu dốt, không minh bạch, nham hiểm từng ngày biến câu hỏi “chúng ta có gì ?” trở thành “chúng ta còn gì ?”

“… Gia tài của Mẹ để lại cho con. Gia tài của Mẹ là nước Việt buồn… Gia tài của Mẹ một bọn lai căng. Gia tài của Mẹ một lũ bội tình…” (*)

Người Mẹ – Tổ tiên ta đã để lại cho ta 1 quốc gia liền lặn, gấm vóc. Sự bừa phứa, không chọn lựa của 1 nhóm người – không được chọn lựa thực chất – biến chúng ta gián tiếp thành những Người Mẹ kế theo nhẫn tâm.

4. Uy tín dân tộc Việt – có hay không ?

Đầu tiên, phải khẳng định, cái giá phải bù đắp cho 1 đơn vị Mất Uy Tín chắc chắn cần nhiều hơn 1 đơn vị Uy Tín. Bởi đơn giản, Uy Tín là điều kiện tiên quyết cho niềm tin, cho việc chấp nhận, san sẻ rủi ro, dọn đường cho bất kỳ sự hợp tác song phương, đầu tư vốn nào. Còn Mất Uy Tín là thể hiện cho 1 sự phản bội niềm tin. Ở mức độ nặng, nó còn được hiểu như tính giả dối, nó đe dọa nền tảng xây nên từ những Uy Tín trước đó.

a. Uy tín trong nội bộ:

Xét về bản chất và thói quen, người Việt Nam chưa bao giờ bị đánh giá là 1 dân tộc gian manh. Vậy nguyên nhân nào đã hủy hoại đạo đức con người Việt hiện đại (mà báo chí thường nhắc tới với cụm từ “suy đồi đạo đức”) ?

Sự manh nha của tráo trở, lật lọng luôn ẩn nấp dưới tấm áo đời sống xã hội, đó là 1 chân lý. Các xã hội đó chỉ khác nhau ở chỗ: Khả năng người dân đủ tỉnh táo và mạnh mẽ để chọn ra 1 nhóm lãnh đạo, nhằm khống chế nguy cơ đó ở mức độ thấp nhất có thể. Quá trình chọn lựa đó đòi hỏi giữa bất kỳ giai cấp, đảng phái, cá thể… nào cũng phải duy trì mức độ uy tín và tin cậy để cộng tác với nhau. Điều này dẫn tới 1 kết luận: Tính dân tộc là tối thượng, không 1 giai cấp hay cá nhân nào có thể dẫm lên. Bất hạnh thay, chúng ta đã đi theo chiều ngược lại trong quá trình lựa chọn này (**). Lẽ đương nhiên, như trong 1 phiên tòa được điều hành bởi 1 thẩm phán thừa sức mạnh để cầm cây gậy, nhưng lại thiếu khôn ngoan và sự nghiêm túc để cầm cán cân, kết cục đang và sẽ không tốt đẹp.

Chính quyền của ông Diệu luôn ý thức được việc bị đào thải trong quá trình chọn lựa nói trên. Kết quả trong các cuộc bầu cử luôn là cái gương cho đảng PAP điều chỉnh chính sách trong đợt bầu cử sau, nhằm giật lại niềm tin của nhân dân ngay khi nó có xu hướng trôi dần sang phe đối lập. Với phong thái ung dung hoàn toàn khác biệt, đảng cầm quyền ở Việt Nam có thể ung dung trì hoãn các cuộc cải cách và tự thanh lọc nội bộ, thay thế vào đó là những cuộc hô hào nặng tính hình thức với bản thân và nhồi nhét với người nghe. Nguyên nhân vì cơ chế hệ thống cho phép chính quyền không cần bảo đảm uy tín với người dân. Uy tín trở thành 1 thứ xa xỉ phẩm mà có thể nhiều thế hệ nữa, người dân cũng không đủ khả năng mua được nó từ phía người cầm quyền.

b. Uy tín với quốc tế:

Singapore đang ngày một trở thành 1 điểm nối cho không chỉ những hội nghị ngoại giao, mà còn là điểm dừng của những cuộc gặp gỡ cấp cao, những mặc cả về chính trị. Quan điểm của ông Diệu rất rõ ràng: Biến Singapore trở thành cầu cảng đầu mối cho những giao lưu ở tầm vóc khu vực & quốc tế. Uy tín của Singapore không còn bị hạn chế bởi diện tích lãnh thổ như ông Diệu đã từng lo lắng khi so sánh Singapore và nước láng giềng Malaysia: “Chỉ là 1 chấm nhỏ”. Người ta nhìn nhận Singapore ở khía cạnh tổ chức chặt chẽ và niềm tin đã được toàn bộ thế giới thứ nhất công nhận.

Việt Nam đương nhiên, chẳng có lý do gì để phải bắt chước theo Singapore, bởi tất cả những khác biệt về địa lý, điều kiện lịch sử và những tiềm lực khác. Trong 1 thập niên trở lại đây, Việt Nam cố gắng hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, mà vẫn giữ được độ an toàn cho thể chế. Những cố gắng này được cụ thể hóa bằng tư cách thành viên ASEAN, chủ tịch luân phiên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chủ nhà hội nghị APEC v.v… Cách đây khoảng 8 năm, 1 cậu thanh niên ở bang Uttar Pradesh (Ấn Độ) có thể chẳng có 1 khái niệm gì về 2 tiếng “Việt Nam” – thế giới thứ ba. Nay thì khác. Thanh niên Nhật Bản, thanh niên Mỹ… – những phương xa – thậm chí biết tới Việt Nam nhiều hơn.

Nhưng như vậy đã đủ chưa ? Sau cuộc chiến cách đây 35 năm, chuyên gia của Nhật Bản, Mỹ đã có những bản báo cáo hết sức lạc quan về sức bật của dân tộc Việt – chúng ta có 1 uy tín lớn với sự nể phục, thậm chí có chút kiêng dè, như ông Diệu thú nhận. Nhưng có lẽ cho tới giờ, uy tín ấy đang dần bị bão hòa, bị tầm thường hóa. Nhiều nguyên nhân nhạy cảm đã buộc nhà nước phải có những hành động không tương thích với tinh thần Việt (như sự bất tín khi không cấp visa cho Tổng thư ký đảng DPP của Đài Loan (***), thái độ lảng tránh khi cơ quan điều tra Nhật đề nghị hợp tác trong vụ hối lộ PCI v.v…). Tất cả để đánh đổi lấy điều gì ? Thật buồn là chẳng có gì, ngoài sự khinh thường, leo thang bành trướng của tên Anh Hai Khốn Nạn mà Việt Nam vẫn thường đứng nép vào, dạ thưa; “sự tín nhiệm” của các công ty nước ngoài xem Việt Nam như 1 điểm đến lý tưởng vì chi phí rẻ mạt cả mặt tài nguyên lẫn nhân lực.

Bao giờ chúng ta mới hết tự huyễn hoặc mình về 1 kẻ dẫn đường hành động vì số đông, kẻ dẫn đường biết tạo ra uy tín –  qua các cuộc họp liên miên nặng tính hình thức trong 1 khối hãy còn quá rời rạc như ASEAN, hoặc bằng những thông điệp thường trực ba phải, vô bổ – thực chất là nói theo ý người khác, nói với tư thế 1 kẻ né tránh việc trở thành tâm điểm. 1 kẻ dẫn đường chẳng những không biết ứng dụng uy tín quốc tế làm lá chắn mỗi khi bị lang sói chặn đường, trái lại sẵn sàng hiến bớt con chiên đi theo v.v… Tất cả chỉ nhằm 1 mục đích: Được tiếp tục cầm chiếc gậy dẫn đầu.

Tạo ra đã khó, giữ niềm tin người khác đặt vào mình 1 cách đúng đắn càng khó hơn. Tuy nhiên, trên hết, cơ sở cho sự tạo lập và nêu cao uy tín quốc tế thực chất sẽ chẳng có gì, nếu chúng ta không tự mang uy tín của mình, của người khác trao cho ra soi gương. Bởi, bên trong lớp vỏ của uy tín, có thể chính là sự Lừa Dối.

Chú thích:

(*): Trích trong bài hát Gia Tài Của Mẹ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

(**): Ví dụ: Hiệp định Paris năm 1973, ở điều 4 quy định như sau: Miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền.2 quân đội, 2 vùng kiểm soát. Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống qua lại tự do giữa 2 vùng. Dân tộc Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình qua “Tổng tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”. Nhưng bên mạnh luôn là kẻ mạnh nắm đằng cán, kẻ yếu nắm đằng lưỡi. Thực tế đã được chứng minh bằng việc hiệp định hoàn toàn bị đạp lên vào năm 1975.

(***): Tổng Thư ký của đảng DPP (Đảng Dân Tiến – cầm quyền ở Đài Loan) từng bất ngờ bị Việt Nam từ chối cấp visa nhập cảnh (dù trước đó đã ưng thuận). Sự kiện này diễn ra năm 2007, được cho rằng do mệnh lệnh từ phía Trung Quốc.

Từ 1 số nguồn tin (*), người ta nói Arsenal đã ra giá khoảng 5.5 triệu bảng (gần bằng 9.3 triệu dollar) cho tài năng trẻ – hậu vệ người Argentina là Federico Fazio của Sevilla.

Tuy nhiên, câu lạc bộ của Fazio đã thẳng thừng từ chối. Del Nido – chủ tịch của Sevilla – nổi tiếng là người khá khôn ngoan trong thị trường chuyển nhượng với chiến thuật mua rẻ bán đắt. Và mặc cho quá trình chưa được chơi ở đội 1 nhiều lẫn chấn thương trong phần lớn mùa giải vừa qua, Fazio vẫn được huấn luyện viên Manolo Jimenez đánh giá cao. Hiện tại Fazio đang tập trung cùng đội 1 của Sevilla, những diễn biến đầu tiên cho thấy Wenger sẽ còn phải làm nhiều việc để lôi kéo Fazio về Emirates, bởi người đại diện của anh – Eduardo Gamarnik – đã khẳng định với tờ La Razon: “Điều rõ ràng là Fazio chưa thích chuyển nhượng hay bị đem cho câu lạc bộ khác mượn. Fazio sẽ còn chơi cho Sevilla mùa tới. Del Nido nhận được 1 lời đề nghị trị giá 7 triệu euro, nhưng đã từ chối. Fazio sẽ được chơi nhiều hơn trong mùa này.”

Fazio, 22 tuổi, xuất thân từ câu lạc bộ Ferro Carril Oeste (gọi tắt là Ferro) tại thủ đô Argentina là Buenos Aires. Mùa bóng 2006-2007 anh chơi cho câu lạc bộ này 48 trận, ghi 3 bàn. Tháng giêng năm 2007, anh được Sevilla đưa về trong kỳ chuyển nhượng giữa mùa bóng. Sevilla không vội dú ép, đưa Fazio xuống đá ở đội dự bị (Sevilla Athético) – thi đấu ở hạng 3 (Segunda División B). Chơi ở vị trí trung vệ, ngay lập tức Fazio thể hiện vai trò xuất sắc, giúp Sevilla Athlético thăng hạng 2 (Segunda División hiện nay được gọi là Liga Andelante) ngay mùa vừa qua. Tuy nhiên, Fazio không thường trực thi đấu ở đội dự bị. Chỉ 5 trận ở đội dự bị, ông Jimenez đã nhận ra tài năng của anh và triệu tập anh lên đội hình chính, anh cũng có những màn thể hiện đáng lưu ý (tham gia tới 38 trận), bằng khả năng không chiến và lối chơi không khoan nhượng. Thậm chí mùa 2007-2008, tranh thủ thời cơ khi Escude và Navarro bị chấn thương, Fazio chiếm suất đá chính và góp công lớn vào chức vô địch UEFA Cup của Sevilla.

Fazio khá cơ động, ngoài vị trí trung vệ, anh cũng có thể đá ở vị trí tiền vệ phòng ngự. 1 điều là lý thú là những ai chơi game quản lý bóng đá Football Manager (FM2009) hẳn không thể không biết anh chàng trung vệ trẻ cao to này, bởi anh là wonderkid (thần đồng) số 1 ở hàng phòng ngự trong game ! Trong FM, Fazio được xây dựng rất “đời thường” – nghĩa là khả năng chuyên môn thì tốt nhưng do lối chơi chặt chém mà anh vẫn thường mắc lỗi vào 1 số thời điểm quan trọng (**).

1 số thông tin khác về Fazio:

– Sinh ngày 17/3/1987 tại Buenos Aires (Argentina).

– Chiều cao: 1m95.

– Thi đấu chuyên nghiệp từ mùa giải 2005-2006. Bàn thắng đầu tiên cho Sevilla: Ghi vào lưới đội Racing Santander trong khuôn khổ giải La Liga (ngày 7 tháng 3 năm 2008).

– Thi đấu ở cấp độ đội tuyển Argentina từ mùa giải 2006-2007. Thành tích: Huy chương vàng giải U20 thế giới.

Ghi chú:

(*) : Các nguồn: arsenal-mania.com, báo The Sun.

(**) : Sự tỏa sáng (+ ít mắc sai lầm) trong các trận đấu lớn của FM dựa vào 1 chi số có tên gọi là Important match. Tùy vào dự liệu được phát sinh tự động, important match của Fazio thường chỉ dao động quanh con số 7 (20 là tối đa).